Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2021

BTH0003- VÕ TRƯỜNG TOẢN

 






Võ Trường Toản

(…- Nhâm Tý 1792)









Xử sĩ, nhà giáo dục thời Nguyễn sơ, hiệu là Sùng Đức, quê huyện Bình Dương, phủ Gia Định.

Sống vào thời loạn, không ra làm quan, mở trường dạy học. Học trò của ông khá đông và nhiều người nổi tiếng như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Phạm Đăng Hưng.


Đình Chí Hòa, nơi nhà giáo Võ Trường Toản từng ngồi dạy học


Nguyễn Phúc Ánh vẫn thường vời ông đến giảng sách, bàn luận chính trị, bàn luận chính trị, muốn trọng dụng ông, nhưng ông một mực từ chối. Giới trí thức đương thời đều cảm phục tôn kính ông, gọi ông là "Gia Định xử sĩ".

Ngày 9-6 Âm lịch Nhâm Tí (27-7-1792) ông mất. Nguyễn Ánh ban hiệu cho ông là Gia Định xử sĩ Sùng Đức võ tiên sinh.

Sau khi giặc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì, Phan Thanh Giản cùng với Nguyễn Thông và nhiều sĩ phu yêu nước khác đứng ra lo việc cải táng Võ Trường Toản về Bảo Thạnh, tỉnh Vĩnh Long (nay là tỉnh Bến Tre) với ý nghĩa là không để mộ thầy nằm trong vùng giặc chiếm.



Võ Trường Toản là nhà giáo dục lớn sinh trưởng ở dất Đồng Nai.

Ngoài một nhà giáo, ông còn là một nhà thơ khi chữ Nôm đang trên đà phát triển. Thơ văn ông phần lớn đã thất lạc, còn lại bài "Hoài cổ phú". Với bài phú này, ông đã chứng minh một cách hùng hồn cho khả năng đại chúng của chữ Nôm (tiếng Việt), trong khi chữ Hán vẫn còn là một thứ văn tự quyết định cho văn chương.


---------

Tiểu sử

Theo GS. Trịnh Vân Thanh, thì tổ tiên Võ Trường Toản vốn là người Hoa lánh nạn Mãn Thanh sang cư trú ở Đàng Trong. Đến khi xảy ra cuộc hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn, con gái thứ hai của Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên với vua Chân Lạp Chei Chetta (1668 - 1628), thì họ cũng từ miền Trung vào miền Nam lập nghiệp .

Về tiểu sử của ông đã được đại thần Phan Thanh Giản tóm tắt trong một bài văn bia bằng chữ Hán soạn năm Đinh Mão (1867), tạm dịch ra như sau:

"Tiên sinh họ Võ, húy Trường Toản. Đời trước hoặc nói là người Thanh Kệ (Quảng Đức) , hoặc nói người Bình Dương (Gia Định) , trước thọ nghiệp cùng ai chưa biết rõ. Chỉ biết sở học của tiên sinh đã tới bậc dày dặn, đầy đủ, chất thật có thuật nghiệp thâm uyên thông đạt. Xảy hồi loạn Tây Sơn, tiên sinh ở ẩn mở trường dạy học, thường học trò đến mấy trăm. Ông Ngô Tùng Châu là môn sinh cao đệ nhất. Thứ đến là các ông Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhơn Tịnh. Bậc danh sĩ là ông Chiêu, ông Trúc đều ẩn dật. Ngoài ra không kể hết được...Các ông ấy đều gặp hồi phong vận, thời trung hưng triều Gia Long đức bậc tôi hiền, có người hoặc sát thân để làm nên điều nhân, hoặc quên mình để trọng tiết nghĩa, thảy đều nên công nghiệp lớn...Lúc ngự vào Gia Định, đức Thế Tổ Cao Hoàng đế hằng triệu tiên sinh tới đối ứng...Tiên sinh không khứng ra làm quan, nên đại khái không thấy được sự nghiệp. Từ thuở tiên sinh lấy lối học nghĩa lý để giáo hóa, chẳng những đương thời đào tạo được nhiều bậc nhân tài, mà còn truyền thuật, giảng luận, trau dồi về sau"...

Tượng Võ Trường Toản trong đền thờ
Võ Trường Toản mất ngày mồng 9 tháng 6 năm Nhâm Tý (tức 27 tháng 7 năm 1792).

Hiện nay văn thơ của Võ Trường Toản chỉ còn lưu truyền một bài "Hoài cổ phú", viết bằng chữ Nôm, dài 24 câu



--------


(Từ trang mạng của ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE)


Võ Trường Toản (?-1792)


Võ Trường Toản người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (không rõ năm sinh, cũng như không rõ gốc gác, chỉ biết ông là người học rộng, tài cao, thông đạt kim cổ...).
Trong thời chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh, ông ở ẩn nơi quê, mở trường dạy học, từ chối mọi điều ban phát, không tham gia vào chính sự. Trong hàng trăm học trò do ông đào tạo, có những người nổi tiếng như Trịnh Hoài Đức, Lê Bá Phẩm... Những nho sĩ tiết tháo thuộc thế hệ sau như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị cũng chịu ảnh hưởng về đạo đức, học phong, sĩ khí của nhà giáo họ Võ.

Võ Trường Toản mất ngày mồng 9 tháng 6 năm Nhâm Tý, tức 27-7- 1792. Để tưởng nhớ công đức của thầy, học trò cũ mà ông đã tặng đôi liễn:

"Sinh tiên giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử
Một hậu thịnh danh tại thế, tuy vong giả bất vong"

(Dịch nghĩa: Lúc sống dạy dỗ được người, không con cũng như có. Chết, tiếng tăm còn để, mất mà chẳng mất).

Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay giặc Pháp, một số sĩ phu ở Gia Định (trong đó có Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông, Phạm Hữu Chánh, Trương Gia Hội) không muốn cụ Võ Trường Toản nằm lại trong vùng bị tạm chiếm, đã chủ trương dời phần mộ về làng Bảo Thạnh (nay thuộc xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri) ngày 15-12-1965 (1). Văn bia dựng tại ngôi mộ do Phan Thanh Giản soạn. Sau đó, Nguyễn Thông, lúc bấy giờ là Đốc học tỉnh Vĩnh Long, đã viết lời tường thuật cuộc cải táng được khắc ở mặt sau bia.

Những trước tác của cụ Võ Trường Toản hầu như bị thất lạc... đến nay chỉ còn lưu truyền một bài phú duy nhất, bài Hoài cổ dài 24 câu. Với bút pháp cổ điển - những điển tích, hình ảnh đều lấy từ sử sách của Trung Hoa – tác giả bài phú muốn ký thác vào đó tâm sự cùng quan niệm về đời, về người cùng những gì mà ông đã chứng kiến trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.



><><><><



Hiếu trung hoài cổ phú


Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn

Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo;
Hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.

Cho hay vực thẳm nên cồn;
Khá biết gò cao hoá bể.

Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm;
Đò tạo hoá đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.

Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng;
Lênh đênh bóng nguyệt dòng sông.

Đường Ngu ấp tổn rượu ba chung, dường say dường tỉnh;
Thang Võ chinh tru cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.

Của có không nào khác đóm mây;
Người tan hiệp dường như bọt nước.

Lánh non Thú cam bề ngã tử hai con Cô Trúc đã về đâu ?
Luyện linh đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương san đà bặt dấu!

Mộng tàn nửa gối, bướm Trang Chu giấc hởi mơ màng;
Xuân lụn mấy canh, quyên Thục đế tiếng còn khắc khoải.

Tha thiết bấy một gò hoàng nhưỡng, ngọc lấp hương chôn;
Ảo não thay! mấy cụm bạch vân, mưa sầu gió thảm.

Ngựa trên ải một may một rủi;
Hươu dưới Tần bên có bên không.

Hán Võ ngọc đường người ngọc nọ xưa đà theo gió;
Thạch Sùng kim ốc của tiền xưa nay đã lấp sương.

Lao xao cõi trần ai, trường hoan lạc gẫm không mấy lúc;
Thắm thiết cơn mộng ảo, đoạn biệt ly há dễ bao lâu.

Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất;
Muôn dặm nước non Đường thế võ, nước non còn đời ấy đâu còn.

Thương hỡi thương! huyền quản cung Tần, chim làm tổ tiếng kêu văng vẳng;
Tiếc ỷ tiếc! y quan đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.

Cung Tuỳ xưa chim nói líu lo, mấy độ xuân về hoa sái luỵ;
Đài Ngô trước hươu nằm ngả ngớn, đòi ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.

Ô giang đêm thẳm hé trăng mành, quạnh quẽ vó chùng họ Hạng;
Cai Hạ ngày chiều hiu gió mát, phất phơ ngọn cỏ nàng Ngu.

Đài vắng Nghiêm lăng, mấy khúc quanh co sông chảy tuyết;
Thuyền không Phạm Lãi, năm hồ lai láng nước ken mù.

Cho hay dời đổi ấy lẽ thường;
Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.

Luỵ rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân;
Sương lọt áo bô, Tử Khiên lại trọn niềm một thảo...

Tôn khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con;
Tích dấu quít, Cự chôn con, nắm nắm đua đền nghĩa mẹ.

Trước đền Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia;
Dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.

Tám trăm dặm xông pha ải Bắc, thương họ Hàn chói lói lòng dân;
Mười chín năm giữ một niềm Tây, cảm ông Võ phơ phơ đầu bạc.

Cật Võ Mục nhuộm thanh bốn chữ, tấm trung thành đã thấu trời xanh;
Áo Thiên Tường ghi đượm hai câu, phương tựu nghĩa chi phai lòng đỏ.

Trời món đất già danh hỡi rạng, luỵ non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi;
Biển khô đá rã tiết nào phai, sử họ Mã chép còn tỏ rõ.


Nguồn: Văn học Nam Hà, Nguyễn Văn Sâm, 1972

Không có nhận xét nào:


Visitor Map

web stats
Bản Đồ Hành Chánh Ba Tri
Photobucket Photobucket
Không Ảnh Thị Trấn Ba Tri
Photobucket
Photobucket