Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2021

BTH0007- NGUYỄN NGỌC TƯƠNG

 (Tài Liệu Sưu Tầm --- cả Chính Thức và không Chính Thức)









Đức Giáo Tông ngự trên ngai Bửu Điện Thánh địa Bến Tre
HỘI THÁNH ẤN HÀNH



PHẦN THỨ NHẤT

Đoạn đời nhập thế (1881 – 1930)

I. THÂN THẾ

A. GIA ĐÌNH
Người sinh ngày 26 tháng 5 nămTân Tỵ, nhằm ngày 22 tháng 6 năm1881 dương lịch, tại làng An Hội, tổng Bảo hựu, tỉnh Bến Tre, Nam phần Việt Nam.
Thân phụ Người là cụ Nguyễn Ngọc Đẩu, thân Mẫu Người là Bà cụ Võ Thị Sót.
Tổ ba đời của Người là cụ Nguyễn Đức Loan, một nhà Nho học, người tỉnh Bình thuận Trung phần Việt Nam.
Người ra đời được 13 tháng, thì Cụ thân sinh tạ thế; từ đó Người sống với ông bà nội.
Người được định đôi bạn vào năm 1902 cùng bà Trương Thị Tài. Đến năm 1906, bà Thất lộc, để lại 2 con: Cô Nguyễn Thị Tú và cậu Nguyễn Ngọc Hớn.
Người tái thú cùng Bà Bùi Thị Giàu, hạ sanh được 3 người trai: Cậu Nguyễn Ngọc Kỷ, cậu Nguyễn Ngọc Bích, cậu Nguyễn Ngọc Nhựt; và 2 người gái: Cô Nguyễn Thị Yến, cô Nguyễn Thị Nguyệt.
B. HỌC VẤN
Từ 6 tuổi Người theo học chữ Nho, và chút ít chữ Quốc ngữ với Ông nội, học tại nhà.
Lên 14 tuổi (1895) Người vào học lớp 3 trường tỉnh; năm 17 tuổi, Người thi đậu vào trường Trung học Mỹ tho.
Năm 19 tuổi, Người lên học trường Chasseloup Laubat (Sàigòn).
Đến 21 tuổi (1902) Người thi đỗ rồi nghỉ học.
C. LỊCH TRÌNH QUAN TRƯỜNG
Cũng trong năm 1902 Người thi đỗ vào ngạch Thơ ký Thượng thơ và làm việc nơi phòng Thượng thơ Sài gòn một năm, kế được đổi về Bến Tre tùng sự luôn suốt 17 năm.
Đến cuối năm 1919, Người thi đậu Huyện, rồi được bổ đi làm Quận trưởng Châu thành tỉnh Cần thơ. Ba tháng sau, lại bị đổi đi Hòn chông (Hà Tiên) làm Quận trưởng tại đây 4 năm (1920 – 1924).
Từ năm 1924 – 1927, Người làm Quận trưởng Cần giuộc (Chợ lớn) và được thăng Tri phủ Thượng Thơ.
Từ năm 1927–1930 Người làm Quận trưởng Xuyên Mộc (Bà Rịa). Cuối năm 1930, vâng lịnh Đại Từ Phụ, Người vào đơn xin từ Quan. Được chấp đơn cho nghỉ vào hạng hưu trí, Người về ở Toà Thánh Tây Ninh hành Đạo.

II. VỀ NHƠN ĐẠO

Bổn phận Người đối với gia đình, thân tộc, chòm xóm thật là vẹn toàn gương mẫu.
Đối với ông Nội, Người hết lòng hiếu thảo. Khi còn đi học, Người thường dành dụm tiền quà bánh, để mua trà về kỉnh ông. Người phải sớm nghỉ học để làm việc tự sống, và phụng dưỡng ông trong lúc tuổi già.
Người có một bà Cô, và kính Cô như cha mẹ. Có lần Cô đau, mặc dầu tuổi đã quá lục tuần, nhưng hằng đêm sau khi giảng dạy Hạnh Đường (từ 8 đến 10 giờ), Người vẫn đi đến tận chỗ thăm cô, đường xa ngoài một cây số. Sau bà Cô đau nặng, về nhà lớn cách Hội Thánh gần mười cây số, nhưng hằng đêm, sau khi dạy Đạo xong, Người đều đi thăm. Sự thăm viếng thường ngày như vậy, trong khoản gần hai tháng. Thật là phải có đầy đủ một lòng chí hiếu, chí thảo, mới có thể làm được liên tục bổn phận khó khăn, Thiêng liêng ấy!
Đối với bà con thân tộc xa gần, Người thường giúp đỡ chu đáo mọi mặt. Đặc biệt, mỗi lần lãnh lương, Người gởi tiền ủng hộ những quyến thuộc túng thiếu. Người còn chia vườn đất cho một số thân nhân nghèo mà đông con.
Ngoài ra, những người lân cận trong xóm ấp cũng thường được người trợ giúp mỗi khi hữu sự.
Đối với vợ, Người vẹn giữ được niềm hoà ái của tình nghĩa phu thê.
Đối với con, Người là Ông cha gương mẫu về việc giáo dục trí đức. Nhiều khi, Người cũng lo lắng đến sự ăn mặc cho nữa.
Đối với các thân nhân đã quá vãng, Người lo chu đáo, chăm sóc, sửa sang các phần mộ.
Đoạn đời Nhơn Đạo của Người đã nêu sáng những gương: Hiếu, Nghĩa, Nhơn, Từ.
Người đã tỏ ra chí hiếu với Ông, bà – Cô, vẹn Nghĩa với vợ, rộng Nhơn với bà con chòm xóm, trọn Từ với các con.
Người sống trong một hoàn cảnh xã hội mà nền văn hoá Á Đông bị lu mờ trước sự xâm nhập của nền văn hoá Âu Tây. Nhưng Người vẫn vững lòng tuân hành theo các Giáo lý cao quí của Đạo Nho. Người sùng tín Khổng giáo là cương kỷ về nhơn Đạo vậy.

III. CÔNG NGHIỆP TRONG QUAN TRƯỜNG (Thần đạo)

A. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI
Người sanh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử của nước nhà mất quyền tự chủ. Bao nhiêu cuộc cách mạng Quốc gia, Xã hội phát sanh, khi âm thầm, khi bộc khởi, nhưng liên tiếp cam chịu thất bại.
Từ đây, về mặt vật chất, dân Việt Nam phải chịu muôn vàn tủi nhục, khốn cùng trong kiếp sống bị trị, kém mở mang. Về mặt tinh thần, nền cựu học (Văn hoá Đông phương) tỏ ra bất lực và mất tín nhiệm với đa số. Nhưng nền tân học (Văn hoá Tây phương) mặc dầu có nhiều thế lực, vẫn không trọn chinh phục được nhân tâm, vì đã tiêm nhiễm quá sâu sắc theo các Đạo lý cổ truyền của Tam Giáo (Nho, Thích, Đạo). Xã hội Việt Nam thuở ấy sống trên sự mâu thuẩn gay gắt giữa hai nền văn hoá cũ mới. Lòng người hoang mang bất định.
Riêng về hoàn cảnh cá nhân mình, Người đã được hấp thụ cả hai nền văn hoá Á Âu. Thuở nhỏ, Người nối chí ông, cha học chữ Nho (đến trình độ nghe sách Tứ thơ, Ngũ kinh). Người noi theo nề nếp Khổng Giáo và sùng tín cả Phật Giáo. Rồi vừa lớn lên, Người tiếp đường Âu học và sống trong quan trường.
Với bản chất hiền lương sẵn có, Người bảo thủ tinh thần thấm nhuần Đạo Đức Đông phương làm căn gốc. Nhưng đồng thời, với óc quan sát suy xét sáng suốt, Người sẵn sàng thâu nhận những cái hay của nền văn hoá Tây phương.
Vậy, cũng như những sĩ phu tâm chí đương thời, Người rất đau xót, tiếc thương và ít nhiều hoang mang trước cảnh sống tủi khổ của dân tộc, và sự sa sút của nền Đạo Đức phong hoá. Nhưng riêng Người được may mắn thấm nhuần và biết dung hoà cả hai nền Văn hóa Á Âu. Ấy là đặc điểm quý báu trong tinh thần Người. Nhờ đó mà khi làm quan, Người hăng hái hoạt động cải thiện dân sinh, để thoả mãn một phần nào lý tưởng giải thoát dân tộc. Và cũng nhờ đó, người sớm hữu phước hữu căn ngộ Đạo, và xả thân hành Đạo cứu khổ nhơn sanh.
B. CÁC HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
(Hội buôn An Nam và Hội Khuyến Văn). Năm 1905, Nhựt Bổn đại thắng Nga hoàng. Chiến công nầy thức tỉnh mạnh mẽ các dân tộc nhược tiểu Á châu. Từ đó chí đến sau thế giới chiến tranh 1914 - 1918, ở các nước Đông Nam Á, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc phát khởi sôi nổi. Các nhà chí sĩ Việt Nam cũng bôn ba xuất dương để tìm lối cứu dân cứu nước.
Thuở ấy đang tuổi thành niên, Người cũng thấy những hoài bão vì nước vì dân của mình, được dâng cao trong bầu tâm chí nhiệt thành. Nhưng quan điểm của Người về sự giải thoát có khác. Với tinh thần Đạo Đức làm căn bản, Người chú trọng ở các điểm: cải thiện dân sanh, dân trí và dân tâm. Do đó, Người chủ trương trước tiên phải làm cho dân được: no ấm, khôn ngoan, hiền lương Đạo Đức.
Năm 1919, tại Bến Tre, với uy tín và hạnh đức trong sạch của 17 năm làm việc quan, Người cùng một số bạn đồng tâm đồng chí đứng ra tổ chức “Hội buôn An Nam và Hội Khuyến Văn”.
Hội Buôn nhằm mục đích giác ngộ đồng bào về các quyền lợi kinh tế và thương mãi, hiện nằm trong tay người ngoại quốc. Hội kêu gọi người Việt hợp tác cổ phần, để thành lập các cơ sở giao thương mua bán với nhau, hầu tránh nạn trung gian bóc lột.
Đi đôi với Hội Buôn, Hội Khuyến Văn được tổ chức nhằm khuyến khích dân chúng ham học cầu tiến và bảo vệ phong hoá Đạo Đức. Hội tổ chức những buổi diễn thuyết, cổ động học quốc ngữ, đọc báo, viết văn, làm thơ…Việc học chẳng những để trau giồi tri thức; mà còn để am hiểu luân lý Đạo Đức (hiếu thảo với cha mẹ, hoà thuận anh em, tiết nghĩa vợ chồng, trung tín bậu bạn…) để bài trừ các mê tín dị đoan tệ tục, các tật xấu; để phát huy tinh thần thương nòi giống mến quê hương.
Hội có phát hành một tờ Nội san. Những bài hay được giải thưởng khuyến khích.
Hai Hội đều được sự hưởng ứng rộng rãi của dân chúng trong tỉnh. Cao vọng của Người là lấy tỉnh Bến Tre làm cơ sở kinh nghiệm, để rồi gây thành phong trào toàn quốc.
Nhưng tiếc thay, Người bị Thất bại. Sau một thời gian hoạt động, hai Hội phải tự giải tán vì lý do kinh tế và chánh trị đương thời. Các công việc hoạt động trên đây, tuy không thâu được kết quả thực tế, nhưng đã chứng minh được tinh thần vị nhơn sanh của Người. Vả lại, lúc bấy giờ là thời kỳ bị trị. Cho nên, biết đề xướng lên một phong trào giải phóng kinh tế và văn hoá lệ thuộc, là biết gieo một một giống cách mạng tốt. Đó là một sáng kiến tiền phong, rất đáng nêu gương vậy.
C. CÁC SỰ MỞ MANG KHAI KHẨN
Vốn sẵn lòng thương dân mến nước, tinh thần thấm nhuần Đạo lý (Khổng, Phật Giáo), Người cai trị dân hoàn toàn với đức độ bao dung. Người đặc biệt chú ý việc mở mang khai hoá giáo dục và hết sức tránh việc phải răn phạt.
1. Ở HÒN CHÔNG
Năm 1920, từ Bến Tre, Người được bổ đi làm Quận trưởng Châu Thành Cần thơ. Cách ba tháng sau, lại bị đổi ra Quận Hòn chông (Hà tiên) đến năm 1924.
Thuở ấy, dân sự vùng nầy phần đông là người Miên và Huê kiều. Người Việt chiếm thiểu số. Mọi sanh hoạt: xã hội, công nghệ, thương mãi, lễ giáo, học vấn chưa được khai hoá. Đa số dân chúng còn chịu dốt nát, nghèo nàn, sanh sống cơ cực.
Trấn nhậm xong, Người liền len lỏi sống gần gũi nhơn dân, để thông cảm mọi nỗi đau khổ khó khăn, hầu tìm phương mở mang cho thích hợp. Quan sát xong, Người lần lượt dạy dân cách làm nhà, trồng trọt, làm ruộng, phép cưới hỏi theo lễ giáo. Người chỉ cách lấy đá nung vôi; đây là một nguồn lợi đáng kể của địa phương.
Ngoài ra, Người lo cất chợ, nhà thương, trường học, cho đào nhiều con kinh xuyên qua các đồng ruộng, và con kinh từ Hòn chông đi Rạch Giá. Về làm ruộng, Người giúp vốn và chỉ dẫn cách khai khẩn đất hoang, đất rừng thành đồng ruộng tốt. Nhờ đó dân chúng ngày được thêm khá giả. Trong việc khẩn hoang, Người chẳng hề dành riêng cho mình một sở đất nào cả. Thấy sự công cán và liêm chánh ấy, Nhà nước có truất ra một sở đất để tên Người đứng bộ. Song Người từ bằng cách tỏ ra không hay biết và không thâu huê lợi.
Dân chúng trong vùng rất cảm mến và ghi ơn Người. Về sau, khi Người đã về Bến Tre hành Đạo, thỉnh thoảng có người đến thăm viếng, với lòng yêu kính thân mật y như là tình bà con ruột thịt.
2. Ở CẦN GIUỘC
Trong khoản những năm 1924 đến 1927, Người ngồi Quận trưởng Cần giuộc (Chợ lớn). Quận nầy dân đông, toàn người Việt. Mọi sự sinh hoạt rất phồn thịnh và đã được mở mang nhiều rồi. Người chỉ tiếp tục bổ túc hay cải thiện thêm, và cho làm nhiều con lộ giao thông giữa các làng.
Nơi đây, Người gặp Đạo Cao Đài vào cuối năm 1925. Hằng ngày, ngoài việc nơi công đường, Người còn chú trọng khai đàn phổ độ người vào Đạo, sự phổ độ được kết quả mỹ mãn.
Nhưng cũng vì tu và làm cho dân theo tu nhiều quá, mà Người bị đổi ra Quận Xuyên mộc (Bà Rịa).
3. Ở XUYÊN MỘC (1927 – 1930)
Quận nầy là một vùng hẻo lánh, nhiều rừng núi, nằm ven bờ biển. Dân chúng ít, chỉ có phân nửa người Việt, còn phân nửa là dân tộc thiểu số.
Ở Xuyên mộc, sanh hoạt của dân chúng đều như chưa mở mang. Thế là Người lại được gặp đất để khai hoá. Sau một thời gian thăm viếng, quan sát, nghiên cứu tận chỗ. Người liền bắt tay vào việc xây đắp các đường giao thông, cho các vùng được thuận tiện liên lạc cùng nhau để mua bán đổi chác. Con đường quan trọng nhứt là lộ đi từ Long hải đến Nước Ngọt. Kế đó, Người lo mở trường học, nhà thương và chợ.
Đặc biệt hơn hết, là người xin Chánh phủ cho dân khẩn rừng. Người thân đứng ra chỉ dẫn cách khai phá và mọi cách trồng tỉa làm ăn.
Một vùng Nước Ngọt trù phú vui vẻ tấp nập ngày nay, là kết quả công lao khai mở chí công vô tư của Người. Người chỉ lo làm cho dân chúng hưởng, và tuyệt nhiên không chiếm giữ riêng một miếng đất nào cả.
Nơi đây, ngoài công vụ, Người cũng vẫn lo khai Đàn, phổ độ nhơn sanh vào Đạo, kết quả thật là sâu rộng.
Tóm lại, đoạn đời làm quan của Người đã nêu gương những đức tánh: thương dân mến nước, chuyên cần, liêm chánh.
Vì hết lòng thương dân mến nước, nên Người rất hăng say với mọi công việc mở mang khai khẩn, để cải thiện dân sanh, dân trí, dân tâm. Ngoài ra, Người chủ trương “Dĩ đức phục nhân”, hơn là áp dụng pháp trị.
Nêu gương chuyên cần, Người làm việc gần gũi với dân, không nài lao tâm mệt xác. Người không hề chán nản, mà vẫn tích cực hoạt động, để khắc phục mọi hoàn cảnh khó khăn khổ cực.
Nêu gương liêm chánh, Người chẳng những không cậy quyền mà áp chế bóc lột dân, hay chiếm khẩn riêng đất đai; mà trái lại, Người còn từ chối lợi quyền đặc biệt do Chánh phủ ban thưởng cho.
Vậy từ Nhơn Đạo vẹn toàn, Người đã tận tâm ra lo cho dân, cho nước với trọn lòng yêu sinh, mẫn cán, chí công vô tư. Người đã thật hành phần Thần Đạo với cả tài đức kinh luân của bậc Quân tử (Nho gia).

IV. GẶP ĐẠO CAO ĐÀI

A. LÝ TƯỞNG GIẢI THOÁT
Như đã trình bày, hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng sâu sắc vào tâm não Ngài 2 điểm chánh:
Sự bất lực, mất tín nhiệm của nền văn hoá Đạo đức Á Đông trước thế lực bành trướng của nền văn minh khoa học Âu Tây.
Sự khổ nhục của dân tộc dưới chế độ thuộc địa.
Những nỗi đau đớn nầy canh cánh mãi nơi lòng Người. Người cố tìm phương để giải thoát dân sinh, và gầy dựng lại gía trị cho nền Đạo Đức cổ truyền. Những hoạt động xã hội (Hội buôn, Hội Khuyến Văn), những công nghiệp mở mang khai phá ở các nơi, chỉ thoả mãn được một phần nhỏ các hoài bão cao xa của Người. Người thấy đó chỉ là những hành động miễn cưỡng nhỏ hẹp, trong khi chưa biết phải làm chi khác. Nên Người không ngớt tìm kiếm những đường lối hữu hiệu hơn, khả dĩ giải thoát chung cho cả đồng bào, tạo lại uy tín và vị trí xứng đáng cho nền Đạo đức Á Đông. Vì theo Người, nền Văn hoá Đông phương là phần chơn lý về tâm linh, Chơn lý nầy phải vĩnh cữu tồn tại, để hướng nền văn minh khoa học vật chất Tây phương, đến ngay mục đích phục vụ hạnh phúc nhơn sanh.
Khi ngồi ở Quận Hòn Chông, Người có cầu học Đạo theo phái Minh Sư, ăn chay tịnh luyện. Nhờ đó, Người cảm thấy đường giải thoát hé mở. Song người cũng không toại chí. Vì phép tu như thế chỉ giải thoát được một thiểu số mà thôi, chớ không cứu thoát chung cho cả đồng loại đặng. Rồi lúc nào, Người cũng muốn tìm phương vượt lên khỏi bầu không khí của cuộc đời hiện tại. Cũng như xưa kia, Thái tử Sĩ Đạt Ta đã khổ sở giữa cảnh lâu đài vàng ngọc, vì thấy thần dân lầm than trong giai cấp, trong sanh, lão, bịnh, tử. Người đã trải qua những thời gian khủng hoảng tinh thần, với lý tưởng giải thoát, chưa tìm được lối ra thích hợp.
B. NHẬP ĐẠO VÀ SƠ LƯỢC VỀ ĐẠI ĐẠO
Vào cuối năm 1925, tại Quận Cần Giuộc, Người gặp Đạo Cao Đài trong buổi phôi thai. Qua một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, Người xin lập nguyện nhập môn. Người được phong làm THƯỢNG CHÁNH PHỐI SƯ vào khoản giữa tháng tư năm Bính Dần (1926), trong một Đàn cơ tại Hội Phước tự, xã Long Trạch (Chợ lớn). Rồi đến ngày 22 tháng 11 năm 1930, Nghị Định của Đức Lý Đại Tiên và Đức Hộ Pháp thăng Người lên phẩm ĐẦU SƯ. Đang có một trạng thái tinh thần nan vui mầng vì là ngày của Ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây…..”
Nội dung các Tôn giáo đều một mục đích duy nhứt, là khuyến thiện và cứu khổ nhơn sanh. Nhưng phần hình thức sở dĩ có khác nhau, là vì mỗi Tôn Giáo phải mang nặng những màu sắc riêng biệt của tư phương và thời kỳ khai sáng.
Tôn chỉ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: ngày nay các ranh giới thiên nhiên (núi rừng sông biển) đã mất lần trước khoa học máy móc. Loài người được dễ dàng thông đồng liên lạc từ xứ này qua xứ khác. Cảnh năm châu một chợ đã đưa các sắc dân Âu Á, và các Tôn giáo Đông Tây. Mọi thành kiến bất đồng chia rẽ về vật chất cũng như về tín ngưỡng không thể tồn tại được nữa.
Cho nên, Đấng Cha Lành khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với Tôn chỉ là:
a. Tam Giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhứt – Qui nguyên Tam giáo hiệp nhứt Ngũ chi
Cốt là để xoá hết những thành kiến rẽ chia về tín ngưỡng. Với tinh thần Qui Nguyên Hiệp Nhứt, toàn thể các Tôn Giáo xưa đều có sứ mạng mới là vùa giúp vào sự mở đường dung hoà giáo lý. Vã lại, khoa học cơ giới ngày nay đã phát triển tới cao độ. Các Tôn giáo càng phải liên kết, hoá hợp cùng nhau thành một ngọn đuốc Chơn Lý duy nhứt. Được vậy Đạo Đức mới khỏi bị lu mờ trước khoa học, mới có uy tín và vị trí xứng đáng, mới đủ huyền năng kiềm chế và hướng dẫn nhơn sanh thẳng tiến trên đường háo sanh ố sát.
b. Thực hành chủ nghĩa thương yêu tràn trề từ người đến vật
Cốt là để kêu gọi nhơn sanh xoá bỏ mọi chia rẽ, xung đột về màu da sắc tóc, danh vọng lợi quyền. Đức Thượng Đế, nhơn danh là Cha chung, cả kêu các sắc dân, mọi chủng tộc nên nhìn nhận mình là anh em ruột với nhau. Phải sống dung hoà, thương yêu, tương trợ lẫn nhau trong tình máu thịt.
Về sự thương yêu, Đức Chúa Trời dạy rằng: “…Sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới. Bởi thương yêu mà vạn loại hoà bình, càn khôn an tịnh, đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, không thù nghịch lẫn nhau mới không tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa…”. Và Đức Cha Lành cũng vạch rõ mọi tai hại tàn khốc của sự ghét như vầy: “…Kẻ nghịch của cơ sanh hoá là Quỷ Vương, là tay diệt hoá. Cũng như có sống của Thầy ắt có chết của Quỉ Vương.
Quỷ Vương giục sự ghét mà tàn hại các con. Vì ghét nhau mà vạn loại mới khi nhau, vì ghét nhau vạn loại mới nghịch nhau, vì ghét nhau vạn loại mới tàn hại lẫn nhau, mà tàn hại lẫn nhau thì là cơ diệt thế. . .”
Sau cùng Đức Chúa Trời nghiêm phán rằng: “…Vậy Thầy cấm các con, từ đây ví không đủ sức thương nhau thì chẳng đặng phép ghét nhau, nghe à”. Trên đây là đại cương tôn chỉ của Đạo Cao Đài. Khai Đạo trong buổi Hạ nguơn nầy, Đức Thượng Đế quyết cứu độ nhơn sanh khỏi họa diệt vong, để hưởng cảnh thế giới Đại Đồng tuyệt khổ. Cuộc đời của loài người sẽ hoàn toàn hạnh phúc. Các Tôn Giáo sẽ dung hợp về một đường kỉnh thờ Trời là Cha chung. Những hình thức quốc gia chỉ còn là những ranh giới địa dư, chớ không phải là những lằn ranh quyền lợi vẽ bằng xương máu. Các sắc dân trong năm châu đều thương yêu nhau như anh em một nhà, cùng một lý tưởng là mưu đồ nền hạnh phúc chung cho nhau.
Kết lại, Người hoàn toàn thoả mãn và tin tưởng theo tôn chỉ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Người nhận đây là con đường giải khổ thần diệu cho mình, cho dân tộc, cho nhơn loại. Và Người cũng thấy đây là bửu pháp thiêng liêng chấn hưng Đạo Đức, hầu kịp thời hướng thiện về Văn Minh khoa học phát triển theo đường Vĩnh Sanh Tuyệt Khổ cho nhơn loại.
C. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO TẠI QUAN CHỨC (1926 – 1930)
Khi Người gặp Đạo Cao Đài, chính là lúc đường công danh đang thạnh tiến.
Ở Cần Giuộc, ban ngày lo việc quan. Đêm đêm Người đi khai Đàn giảng Đạo. Khuyên dân chúng làm lành lánh dữ thương yêu hoà thuận, kỉnh thờ Trời Phật Thánh Thần. Nhiều đêm Người đi đến sáng, trong gió mưa lạnh lẽo, trên những đường xa xăm lầy lội.
Người rất bận tâm với việc phổ độ. Số người nhập môn rất đông, gồm trong Quận Cần giuộc và cả đến các Quận lân cận, vì Người cũng nhơn các thì giờ rảnh để đi xa mở Đạo. Có thể nói rằng: trong buổi đầu mở Đạo, phong trào phổ độ và nhập môn ở vùng nầy là sôi nổi mạnh mẽ hơn hết. Nhiều Thánh Thất Đạo Cao Đài được gầy dựng trước tiên, và vẫn còn đến ngày nay (như Tân Kim, Tân Quí Tây, Mỹ Lộc, Tân Chánh…)
Ra Xuyên Mộc, Người tiếp tục mở Đạo. Số người nhập môn cũng đông đảo, Người lập được các Thánh Thất: Hội Mỹ, Long Tân, Xuyên Mộc.
Vào cuối năm 1930, Người được lịnh Đức Chí Tôn dạy phải từ Quan, để về hiến thân hành Đạo nơi Toà Thánh Tây Ninh. Không chút do dự, Người đưa đơn xin từ chức, và được chấp thuận cho hưu trí thiệt thọ.
Thời kỳ hành Đạo tại Quan chức là phần công quả bổ túc vào khoản Thần Đạo của Người. Cũng như công cuộc trị dân, đoạn hành Đạo nầy được kết quả với việc hoá dân vi thiện, khuyến khích chánh nghiệp chánh mạng, bảo vệ thuần phong mỹ tục và trật tự cho xã hội.

V. TIỂU KẾT VỀ ĐOẠN ĐỜI NHẬP THẾ

Đoạn đời nhập thế của Người gồm có 3 phần chánh:
· Phần Nhơn Đạo.
· Phần Thần Đạo.
· Nhập Đạo Cao Đài.
Phần Nhơn Đạo của Người được vẹn toàn trong cơ tùng khổ. Người làm tròn các bổn phận đối với: Ông, bà – Cô, vợ con, thân tộc, chòm xóm. Hành đúng theo Nho Giáo, Người đã nêu gương các đức tánh: Hiếu Thảo, Nhơn Nghĩa, Thiện Từ.
Phần Thần Đạo của Người được sáng tỏ trong cơ Thắng khổ. Đứng trước mọi cảnh cơ hàn khổ nhục của dân tộc, Người tích cực cải thiện mọi mặt sinh hoạt. Kết quả: Người trấn nhậm nơi nào, thì Nhơn sanh nơi đó được thêm ấm no an cư lạc nghiệp. Về phương diện tinh thần, Người cố công mở mang, giáo hoá để thắng các khổ: dốt chữ, Thất học, mê tín dị đoan, tồi phong bại tục. Về phương diện Đạo đức, Người dạy dân thương yêu hoà thuận, làm phải làm lành, tương thân tương ái, để tránh các khổ do nghiệp ác tánh hung gây nên.
Người thành công trong Đạo trị dân nhờ có những khuôn hạnh quý báu: thương dân mến nước, chuyên cần mẫn cán, chí công vô tư.
Mặc dầu đã đem hết tâm lực phụng sự nhơn sanh với địa vị Quan chức, Người vẫn chưa có được lối thoát như ý cho lý tưởng yêu sinh và giải khổ đồng loại. Mãi đến khi gặp Đạo Cao Đài, Người mới thấy nơi Tôn chỉ của Đạo Trời một sự giải đáp đầy đủ và nhiệm mầu cho các hoài bão của mình. Người hoàn toàn thoả mãn, tin tưởng, nên liền xin nhập môn, và đem trọn tấc lòng thành vào việc hành Đạo.
Vậy đoạn đời nhập thế của Người thể hiện đầy đủ Nhơn Đạo và Thần Đạo. Người đã vẹn toàn hai phần: Tùng khổ và Thắng khổ trong cơ Tuyệt khổ của Tam Kỳ Phổ Độ.


=====


PHẦN THỨ HAI

Đoạn đời hành đạo nơi Toà Thánh Tây Ninh
I. Tây Ninh năm 1930 Toà Thánh
Tòa Thánh ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ thành lập từ ngày mười hai tháng năm Đinh Mẹo (1927) tại làng Long thành tỉnh Tây Ninh. Công sơ tạo do Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư thủ xướng. Nhưng đến năm 1928, vì bất bình nội bộ, Ngài lui về ngã ba Mít một (cách Toà Thánh độ 3 cây số), lập Thảo xá Hiền cung để thờ Đức Mẹ, và tu riêng.
Tòa Thánh do Ngài Thượng Đầu sư Lê Văn Trung, là Chức sắc lớn hiện có mặt tại đó, thay mặt cho Đạo làm chủ. Về hành chánh do ba vị Chánh Phối sư điều đình:
Ngọc Chánh Phối sư: Ngài Lê Bá Trang. Thái Chánh Phối sư: Ngài Nguyễn Ngọc Thơ. Thượng Chánh Phối sư: do Ngài Phối sư Thái Ca Thanh thay mặt cho Người đảm nhận (vì Người còn tại chức Quan ở Xuyên mộc).
Công việc Đạo từ trước vẫn thuận tiến. Nhưng đến năm 1930, nội bộ xảy ra mấy sự rối rắm như sau:
1) Ngài Phối sư Thái Ca Thanh, đương quyền Thượng Chánh Phối sư, vì bất bình với một vài Chức sắc lớn, bỏ phận sự về Thánh Thất Cầu Vĩ (Mỹ Tho). Ngài tách ra lập phái Minh Chơn Lý, lập Toà thánh Trung ương, chống lại giải, Người đột nhiên vào Đạo Cao Đài với tất cả nhiệt tâm thành tín, với cả trí lực để phụng sự mở mang.
Hỏi tại lý do nào. Xin đáp rằng: ấy nhờ Đạo Cao Đài đã vén cho Người thấy một chân trời mới, chân trời Tự Do, Đạo Đức, Hạnh Phúc, Đại Đồng cho cả nhơn loại.
Người đã gặp trong Đạo Cao Đài những giáo lý thoả mãn hoàn toàn những lý tưởng đang bị bế tắc nơi mình.
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, nay tá danh là CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT, tức là ĐỨC CHÚA TRỜI đã dùng huyền diệu cơ bút lập ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Đại lược nền Giáo Lý Đạo Cao Đài như dưới đây:
1. Trời là Cha chung của nhơn loại và muôn loài vạn vật: Nhơn loại vốn là anh em ruột thịt với nhau, cùng một gốc mà sanh ra. Nguyên văn một đoạn Thánh Giáo dạy: “THẦY LÀ CHA CỦA SỰ THƯƠNG YÊU. DO BỞI SỰ THƯƠNG YÊU MỚI TẠO THÀNH THẾ GIỚI VÀ SINH SẢN CÁC CON. VẬY CÁC CON SẢN XUẤT NƠI SỰ THƯƠNG YÊU LÀ CƠ THỂ CỦA SỰ THƯƠNG YÊU ĐÓ....”
Sở dĩ nhơn loại không còn nhìn nhận mình là ruột thịt với nhau bởi hai lý do chánh:
a. Một là: Từ xưa, nhơn loại sống thưa thớt từng địa phương, bị bao bọc bởi núi rừng sông biển, khu biệt thành ranh giới thiên nhiên. Đông Tây không thông nhau, Nam Bắc không gặp nhau. Vì ảnh hưởng của phong thổ, thời tiết từng tư phương, nên màu da sắc tóc khác nhau, ngôn ngữ bất đồng. Do đó mà loài người lầm tưởng là khác giống.
b. Hai là: đất đai, các nguồn lợi thiên nhiên được biến thành của riêng từng vùng; rồi theo đà cạnh tranh, trở nên của riêng từng giai cấp, từng gia tộc, từng cá nhơn. Vì đó, ranh giới quốc gia mới có, rồi sanh ra lần lần quyền tư hữu tài sản, ra nhiều giai cấp người; phẩm chất sản vật mới định giá. Sự đấu tranh quyền lợi ngày thêm gay gắt, sâu sắc. Chẳng những nó chia rẽ, gây nghịch lẫn, mà còn đưa nhơn loại đến chỗ tàn hại tiêu diệt lẫn nhau.
2. Các Tôn giáo Đông Tây đều do Đấng Chúa Trời phân thân lập nên. Các vì Giáo Chủ của các Tôn Giáo đã có trên Thế giới đều là những sứ thần tư phương của Đại Từ Phụ. Thánh Giáo Đức Thượng Đế đã dạy: “Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã, Thích Ca Mâu Ni thị Ngã, Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã. Kim viết Cao Đài…”. Và đêm NOEL 1925, Đức NGỌC HOÀNG cũng có giáng dạy rằng: “Đêm nay, 24 tháng 12, phải Toà Thánh Tây Ninh (Do cơ bút dẫn dắt).
2) Các họ Đạo mấy tỉnh Hậu Giang lại theo với Ngài Chưởng Pháp Trần Đạo Quang, thành lập phái Minh Chơn Đạo, lấy Thánh Thất Giồng Bốm (Bạc liêu) làm Toà Thánh Hậu Giang (cũng do cơ bút dẫn dắt).
3) Tại Sài gòn, Họ Đạo Cầu Kho và đa số chức sắc Hiệp Thiên Đài, không chịu tùng về Toà Thánh Tây Ninh.
4) Tại Toà Thánh, Đức Hộ Pháp lập nhiều cơ sở lấy tên là Phạm Môn, Phạm từ, Phạm nghiệp...Ban đầu, Ngài nói là để cho gia quyến Ngài ở và thờ phượng ông bà kiến họ Phạm. Sau Ngài cắt nghĩa chữ Phạm có nghĩa là Phật. Nên các cơ sở ấy là nơi để cho chu Đạo Hữu theo lập công nghệ làm ăn cho đặng an cư lạc nghiệp. Song các tổ chức nầy và những người lập nguyện hiến thân vào đó, đều chỉ thuộc quyền Đức Hộ Pháp mà thôi, chớ không tùng quyền Hội Thánh.
5) Cũng tại Toà Thánh, Ngài Chánh Phối sư Thái Thơ Thanh tự xuất tiền nhà đất nhà, ra lập các cảnh cực lạc thế giới để cho bổn đạo ở tu. Mọi việc tạo tác, vận dụng nhơn công, thâu người, nuôi ăn nuôi mặc, đều thuộc quyền Ngài Thái Chánh Phối sư, chớ không do lịnh Hội Thánh.
Cơ Đạo nói chung, mặc dù đang thạnh hành về việc phổ độ, nhưng tình hình nội bộ đã có nhiều chinh nghiêng sứt mẻ. Vì đó, ngoại giao bị mất tín nhiệm với chánh quyền Pháp. Sự kiểm soát thêm gắt gao, Toà Thánh bị khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt, đúng như tinh thần một Thánh Giáo ngày 16 tháng tư năm 1928, như vầy: “Đạo đương hồi vướn nơi vòng hắc ám, chẳng khác chi người bị bịnh tà. Các môn đệ Thầy đã lầm lỗi rất trọng hệ, thế thì nền Đạo phải vì đó mà sắp phân vân, điêu tàn trong một lúc, chẳng phải mau đặng.”
II. Đức Giáo Tông về Toà Thánh
Người từ quan về Toà Thánh hành Đạo, vào tháng 2 năm Tân Mùi (1931) với nhiệm vụ cầm giềng mối Đạo, do lịnh Đức Chí Tôn và sự tín nhiệm của Hội Thánh.
Khi tựu chức, Người gởi Châu tri số 1, ngày 2 tháng 2 năm 1931 cho toàn Đạo hay, cùng bày tỏ những ý kiến đối với công việc Đạo hiện thời. Bao nhiêu hy vọng của chức sắc lớn nhỏ trong Hội Thánh, bao nhiêu cảm tình và tin tưởng của chư Đạo hữu các nơi đều chớ chực mong đợi đón tiếp Người.
Một ngôi nhà lầu bằng cây lợp tranh, gần mặt Đại lộ Bình Dương Đạo được gấp rút dựng lên, là biệt xá dành cho Người.
Vâng theo Thánh Giáo Đức Chí Tôn, Ngài Đầu Sư THƯỢNG TRUNG NHỰT (LÊ VĂN TRUNG) viết thơ cho Quan Thống Đốc Nam Kỳ khai rằng: đã giao giềng mối Đạo cho ông NGUYỄN NGỌC TƯƠNG chấp chưởng. Nguyên văn bức thơ ấy bằng chữ Pháp như dưới đây:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
3e AMNISTIE DE DIEU EN ORIENT
No: 202 Bouddhisme Rénové Tây Ninh,
le 4 Juillet 1931
A Monsieur le Gouverneur de la Cochinchine (Saigon) Monsieur le Gouverneur,
J’ai l’honneur de vous faire connaitre qu’à partir de ce jour M. NGUYỄN NGỌC TƯƠNG est chargé de la directive du Caodaðsme ou Bouddhisme rénové ayant pour but de moraliser les peuples de luer apprendre à pratiquer les vertus et à purifier l’àme. M. NGUYỄN NGỌC TƯƠNG est chargé de’entretenir des relations avec le Gouvernement en ce qui concerne le Caodaðsme ou Bouddhisme rénové.
Veuillez agréer, Monsieur le Gouverneur, l’assurance de mes sentiments respectueux et dévoués.
Signé: LÊ VĂN TRUNG
Xin tạm dịch bức thơ nầy ra Việt văn như dưới đây:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Số 202 Tây Ninh ngày 4 tháng 7 năm 1931
Kính gởi Quan Thống Đốc Nam Kỳ (Saigon)
Kính Ngài,
Tôi hân hạnh cho Ngài hay: kể từ nay Ông NGUYỄN NGỌC TƯƠNG được uỷ thác nhiệm vụ cầm giềng mối Đạo Cao Đài, hay Phật Giáo chấn hưng. Mục đích của nền Đạo là dạy dân giữ luân lý, thực hành các đức tánh và trau giồi linh hồn cho được trong sạch. Ông NGUYỄN NGỌC TƯƠNG chịu trách nhiệm giao thiệp với Chánh phủ về mọi vấn đề của Đạo Cao Đài.
Xin Ngài nhận tấm tình kính trọng và trung thành của tôi.
Ký tên: LÊ VĂN TRUNG
Cũng tuân theo Thánh ý, người viết một bức thơ số: 284 ngày 1 tháng NHỰT và Chánh Phối sư NGỌC TRANG THANH ký tên công nhận) gởi cho Quan Thống Đốc Nam kỳ hay: kể từ ngày 31/8 /1931, Người lãnh phần chưởng quản mối Đạo trong Nam Kỳ 9 năm 1931 (có hai Ngài: Đầu Sư THƯỢNG TRUNG (vì thuở ấy nền Đạo chỉ mới mở trong các tỉnh Nam Phần mà thôi). Nguyên văn bức thơ ấy bằng chữ Pháp như dưới đây:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
No: 284 Tây Ninh, le 1er Septembre1931
A Monsieur le Gouverneur de la Cochinchine (Saigon)
Monsieur le Gouverneur,
J’ai l’honneur de vous faire connaitre qu’en obéissant aux instructions divines, je prends effectivement aujourd’hui la direction du Caodaðsme ou Bouddhisme rénové en Cochinchine.
En acceptant cette charge très délicate et lourde, je pense bien servir l’humanité dans la participation à sa régénération morale et spirituelle.
Avec l’aide du Très Haut, je m’efforcerai de réagir de telle facon à pouvoir bien mériter la complète confiance du Gouvernement et à étaler devant le monde la vraie figure du Caodaðsme, telle qu’elle nous est apparue aujourd'les vertus et à purifier l' par la volonté céleste.
Le Caodaðsme est la synthèse des trois principales religions existant en Indochine (Bouddhisme, Taoisme, et Confucianisme). L’altruisme pris dans son sens le plus large, l’amour universel, est le point principal de sa doctrine. Il nous est enseigné par des messages spirites recus de Dieu et de ses ministres les saints esprits évolués, qui nous éclairent et nous guident constamment dans la grande voie conduisant à l’apogée de la perfection morale et spirituelle.
Le Caodaðsme sera appelé à devenir une religion universelle qui amènera la paix mondiale.
Le jour où les Annamites, du Nord au Sud, le pratiqueront avec toute la liberté d’un culte national, le Gouvernement ne’aura plus aucun souci de troubles ou de désordres quelconques, car tout vrai Caodaðste est sincèrement respectueux de l’autorité et amoureux de la paix…
Veuillez agréer, Monsieur le Gouverneur, l’expression de mes sentiments bien respectueux et bien dévoués.
Approuvé: Signé: NGUYỄN NGỌC TƯƠNG
Signé: LÊ VĂN TRUNG Chargé de la Direction du
LÊ BÁ TRANG Caodaðsme en Cochinchine
Xin tạm dịch bức thơ nầy ra Việt văn như dưới đây:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Số 284 Tây Ninh ngày 1 tháng 9 năm 1931
Kính gởi Quan Thống Đốc Nam Kỳ (Saigon)
Kính Ngài,
Tôi hân hạnh cho Ngài hay: vâng theo các Thánh Giáo, kể từ nay tôi chánh thức cầm giềng mối Đạo Cao Đài trong Nam Kỳ.
Nhận lãnh trách nhiệm rất khó khăn và nặng nề nầy, tôi thiết tưởng phụng sự đúng đắn nhơn loại bằng cách tham dự vào sự cải tạo Đạo Đức và linh hồn.
Với sự ủng hộ của Đấng Tối Cao, tôi sẽ cố gắng hành động chỉnh đốn lại như thế nào cho được xứng đáng với sự tín nhiệm hoàn toàn của Chánh phủ, và phô bày trước mọi người chân tướng của Đạo Cao Đài đúng y như hồi Ơn Trên mới giáng dạy chúng tôi.
Đạo Cao Đài là sự hoá hợp ba tôn giáo chánh đã có ở Đông dương (Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo). Sự thương yêu tràn trề và rộng rãi, tình bác ái, là trọng điểm trong tôn chỉ của Đại Đạo. Đại Đạo được giáng dạy cho chúng tôi do những bài cơ bút của Đức Chúa Trời và các Đấng thừa lịnh Người, tức là các phẩm Chơn linh trọn lành, luôn luôn soi sáng và hướng dẫn chúng tôi trên chơn đạo đưa đến cực điểm: chí thiện và chí thánh.
Đạo Cao Đài sẽ được trở thành nền Đạo Đại đồng, sẽ đem lại hoà bình cho thế giới.
Ngày nào mà người Việt Nam, từ Bắc chí Nam, được giữ Đạo Cao Đài với trọn quyền tự do của một Quốc Đạo, Chánh phủ sẽ không còn một sự lo ngại nào về biến động hay loạn lạc nữa, vì người tín đồ Cao Đài chơn chánh rất thật tâm kính trọng chánh quyền và yêu chuộng hoà bình…
Xin Ngài nhận tấm tình rất kính trọng và trung thành của tôi.
Chuẩn y Ký tên
LÊ VĂN TRUNG NGUYỄN NGỌC TƯƠNG
Ký tên: Người cầm giềng mối Đạo
LÊ BÁ TRANG Cao Đài ở Nam Kỳ
Vậy đứng về hai mặt: Thiên mệnh và pháp luật, Người thọ nhiệm vụ cầm giềng mối Đạo Cao Đài kể từ ngày 31/8/1931.
III. ĐỨNG BỘ TÀI SẢN CỦA ĐẠO
Do lịnh của Đức Lý Đại Tiên giáng dạy tại chùa Gò Kén, Người được chọn thay mặt cho Đạo, đứng bộ các tài sản của Đại Đạo. Chỉ riêng về Thánh Địa Tây Ninh, muốn được dung hoà và đủ mặt lưỡng phái, nên Hội Thánh để thêm tên Bà Nữ Chánh Phối sư HƯƠNG THANH cùng đứng bộ với Người.
Năm 1931, khi mới về Toà Thánh, Người có tự nguyện làm hai tờ giao cho Hội Thánh cầm làm bằng. Một cái, Người khai rằng miếng đất Thánh Địa Tây Ninh mua do tiền bạc của bổn Đạo, chỉ để tên Người và bà Nữ Chánh Phối sư đứng bộ giùm mà thôi. Một cái, Người khai rằng kể từ ngày 9/5/1931, là ngày Người xuất gia, thì tên của Người không còn dùng đứng bộ của cải tư riêng nữa. Từ đây về sau, của cải chi mà để tên Người đứng bộ là của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Hai tờ nầy có làng Long Thành thị nhận, và có cầu chứng đóng bách phần nơi Toà bố Tây Ninh.
Vậy chỉ vì Đạo, vì nhơn sanh, Người phải vâng lịnh Ơn Trên gánh vác nhiệm vụ đứng bộ tài sản chung của Đạo. Trong việc nầy, Người chẳng có hưởng quyền lợi chi cho mình cả.
IV. SẮP ĐẶT VIỆC ĐẠO ĐẦU TIÊN
Người bắt tay vào việc với những sự mở mang chỉnh đốn nền Đạo về mọi mặt. Người chỉ làm việc trong phạm vi địa vị của Thượng Chánh Phối sư mà thôi, chớ không phải với nhiệm vụ của người cầm giềng mối Đạo, hay với nhiệm vụ Đầu Sư (vì chưa có sự trao quyền chánh thức theo luật Đạo).
1) NỘI BỘ
Hiệp với hai Ngài Chánh Phối sư Thái và Ngọc, Người lo chỉnh đốn lại Bàn Cửu Viện. Việc phân quyền giữa ba vị Chánh Phối sư thuở ấy như sau:
Ngọc Chánh Phối sư: sửa trị Chức sắc và Tín đồ về phần Đạo và phần đời, giữ Chơn truyền Đại Đạo, cầm quyền tạp tụng. Tổng lý ba viện: Lại, Lễ và Hoà viện.
Thái Chánh Phối sư: Điều đình cơ phổ độ, thuyên bổ Chức sắc hành Đạo tha phương, làm chủ tọa Hội Thánh, quản lý nền tài sản của Đạo, định lương hướng cho Chức sắc, Tổng lý ba viện: Hộ, Lương và Công Nông viện.
Thượng Chánh Phối sư: Chăm nom sự giáo hóa, giao thiệp với Chánh phủ, là chủ tọa Hội Nhơn sanh, Tổng lý ba viện: Nội Ngoại, Học và Y viện.
Tuy quyền hành riêng nhưng khi làm việc, Người vẫn phụ giúp với Ngài Thái Chánh Phối sư, mà kiêm coi hai viện Lương, Công và Nông viện.
Ngoài Cửu viện, Người lo sửa sang chỉnh đốn từ Họ Đạo về mặt nội trị: Sắp đặt cho có đủ Ban Trị Sự mỗi làng và Ban Cai Quản mỗi Thánh Thất, đi thăm viếng các Thánh Thất và giúp mở mang thêm nhiều.
Số Đạo hữu thuở ấy được ngoài 300.000 người. Có 105 Thánh Thất, trong đó có 43 cái tạm.
Từ đây số người về Toà Thánh làm công quả ngày thêm đông. Đạo hữu về cất nhà ở tu trong vùng Thánh Địa càng tăng số. Đồng thời tài chánh, lương thực được toàn Đạo ủng hộ dồi dào. Như lúa và bí rợ không còn kho đụn nhà cửa để chứa cho hết; phải gởi và chia bớt cho các gia đình Đạo hữu ở gần.
2) NGOẠI GIAO
Người là đại diện của Đạo để giao thiệp với Chánh phủ. Người lo xin phép khai các Thánh Thất. Nhờ đó toàn Đạo được tựu hợp cúng kính đông đảo, không còn bị khó khăn như trước nữa. Người sửa sang dạy dỗ về mọi việc hành Đạo, cho mỗi Thánh Thất được trọn hành theo luật Đạo mà khỏi phạm luật đời.
Người đã đem gương hạnh đạo đức chơn tu của mình mà làm tăng uy tín cho nền Đạo, đối với nhơn sanh và Chánh phủ. Người đã hành đúng lời Thánh Giáo của Thầy đã dạy từ trước: “Tương con nhớ lời Thầy, con vốn là con tin của Thầy giao cho Chánh phủ. Nhờ con, mà nền Đạo mới ra lẽ chơn chánh trước mặt Chánh phủ và chúng sanh…”
3) GIÁO HOÁ
Người đã thi hành việc giáo hoá cho toàn Đạo, một phần tại Toà Thánh,một phần cho các Họ Đạo.
Tại Toà Thánh, trường học chữ (Đạo Đức Học Đường) từ số học sinh 60 với hai lớp, lên đến gần 500 chia ra 11 lớp. Người tổ chức nuôi học sinh mồ côi nghèo khó cho ăn đi học, được 94 trò nam nữ.
Ban đêm có hai lớp dạy chữ, và hai lớp dạy đạo lý phổ thông, cho những người làm công quả. Số học viên 4 lớp nầy ngoài 200.
Người còn tổ chức một lớp dạy Đạo cho hàng Chức sắc ở làm việc tại Toà Thánh.
Ngoài ra, một trường Hạnh đường có hai lớp: Một lớp cho hàng Chức sắc, và một lớp cho hàng chức việc dự học. Mỗi khoá 15 ngày, hằng tháng đều có mở.
Về việc giáo dục cho toàn Đạo, mỗi tháng Người cho ra một tờ Châu tri dạy Đạo, nhứt là về Ngũ Giới Cấm, Tứ Đại Điều Qui, Bài Thương Yêu…Người còn truyền cho toàn Đạo học thuộc lòng các bài kể trên, và phát giấy ban khen cho những người đã học thuộc. Các Họ Đạo đều hưởng ứng, gây thành một phong trào học đạo sâu rộng. Tinh thần Đạo Đức trỗi lên cao đáng kể.
Trong số chung các Chức sắc đương quyền trong Đạo từ trước và về sau, chỉ một mình Người là có Châu tri dạy Đạo, và dạy nhiều hơn cả.
4) Y TẾ
Người thành lập Y viện (Dưỡng đường) tại Toà Thánh, để có chỗ cho người làm công quả dưỡng bịnh khi ốm đau.
5) CÔNG NGHỆ
Người tổ chức mở mang các cơ sở như: Trại hàng, trại cựa, trại mộc, lò rèn, sở dương (đan) ghế mây, sở làm củi…cho người về Toà Thánh có việc làm công quả. Các cơ sở cung ứng cho mọi nhu cầu của Toà Thánh được tương đối đầy đủ và ít tốn kém.
6) NÔNG NGHIỆP
Người cho khai phá mở mang 9 sở trồng hàng bông rau cải. Diện tích chung lối 20 mẫu; số nhơn công hằng ngày lối 500 người. Các sở rẫy nầy cung cấp cho Toà Thánh đủ đồ ăn hằng ngày, mà trước kia phải mua ở chợ.
Về các Thánh Thất, Người dạy tổ chức làm ruộng Phước điền, để có một căn bản về lương thực và tài chánh cho nền Đạo, và cũng để có nơi cho Đạo hữu làm công quả.
7) MỞ MANG THÁNH ĐỊA VÀ KHỞI TẠO TÁC TÒA THÁNH
Người tiếp tục công trình khai khẩn của Đức THƯỢNG PHẨM là mở mang hai sở đất của Toà Thánh. Một sở 80 mẫu là khu nội thành Toà Thánh. Một sở 50 mẫu là khu Thánh Địa, để cho chư Đạo hữu cất nhà ở. Tất cả đều được khai phá sạch sẽ, với nhiều đường xá thông thương. Nhà cửa Đạo Hữu được dựng lên ngay hàng thẳng lối. Đời sống của chư Đạo Hữu được tổ chức về mọi phương diện: Giáo dục, luật lệ, vệ sinh, nghề nghiệp…
Ngoài ra, Người sắp đặt mọi việc để khởi công tạo tác Toà Thánh, Bát Quái Đài được bắt đầu xây đúc trước.
8) TỔ CHỨC HỘI NHÂN SANH
Với nhiệm vụ THƯỢNG CHÁNH PHỐI SƯ, Người mời nhóm Hội Nhơn sanh, để thực hiện dân chủ trong nền Hành Chánh nội trị của Đạo. Thành phần Hội nầy gồm toàn thể đại diện nhơn sanh, kêu là phái viên (đại biểu) do nhơn sanh công cử lên. Mỗi phái viên sẽ là đại diện cho 500 đạo hữu. Lệ nhóm định vào ngày 15 tháng 10 âm lịch mỗi năm.
Ban thường trực Hội nầy gọi là Ban uỷ viên thường trực ở nơi Toà Thánh. Tuỳ sở năng mỗi vị lãnh phận sự hành Đạo, và được coi là đại diện cho Hội nầy trong các phiên nhóm của Bàn Cửu viện.
Hội Nhơn sanh ngoài nhiệm vụ ủng hộ mọi việc làm của Hội Thánh, còn có quyền phê bình chất vấn, hoặc đề nghị cải sửa các chủ trương luật lệ nào không phù hạp với đa số tín đồ.
Hội Nhơn sanh nhóm lần trước nhứt vào năm Đạo thứ 6 (1931) và lần thứ hai vào năm Đạo thứ 7 (1932). Hai cuộc nhóm đều được kết quả mỹ mãn. Người đã nâng quyền nhơn sanh lên đến địa vị mà Thầy đã định. Nhờ đó nhơn sanh được góp phần xây dựng vào những trang lịch sử của Đại Đạo.
9) HOÀ GIẢI
Đặt mình là “con tin” của Đại Từ Phụ trước mặt Chánh phủ và chúng sanh, Người tự xét có trách nhiệm nặng nề đối với những sự chia rẽ rối rắm (đã kể nơi chương I) trong nội bộ Toà Thánh. Người quyết tâm dùng lẽ Đạo Đức thương yêu để mưu lại sự hoà hiệp trong Đạo.
Người thân đi thăm viếng mỗi vị. Tuỳ cảnh Người lựa lời khuyên giải gián can, mong đem lại sự thống nhứt cho nền Đạo. Một vài bằng chứng là: bức thơ Người gởi cho Ngài Phối sư THÁI CA THANH ,đề ngày 1 tháng 11 năm 1932, và lời giảng của Người trong cuộc nhóm Hội Nhơn Sanh ngày 15 tháng 10 Nhâm thân (12/11/1932).
Những cuộc cầu nguyện và cầu hòa của Người thuở ấy ở Toà Thánh ai ai cũng biết. Có lần Người quì hương luôn ba ngày đêm tại Bát Quái Đài để khóc lóc cầu nguyện.
Rốt cuộc chỉ được kết quả là:
a. Thảo Xá Hiền Cung được bà bạn của Đức THƯỢNG PHẨM (đã qui liễu) chịu qui hoàn về Toà Thánh.
b. Chức sắc Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài và Thánh Thất Cầu Kho trở về chung lo việc Đạo với Hội Thánh.
c. Ngài THÁI CHÁNH PHỐI SƯ chịu hiến độ 60 mẫu đất và các cảnh Cực Lạc về cho Hội Thánh làm chủ.
Ngoài ra Người phải chịu Thất bại đau đớn trong các cuộc mưu hoà khác.
10) CHỈNH ĐỐN VIỆC ĂN UỐNG
Nơi Toà Thánh, từ trước đã có một chế độ giai cấp rõ ràng trong việc ăn uống.
Sau một thời gian ăn cơm chung với chức sắc lớn, Người đến xem xét các phòng ăn của chư Đạo Hữu làm công quả. Người luân chuyển ăn cơm chung với hàng Đạo Hữu, nay bàn nầy, mai bàn khác, thời gian suốt cả tháng.
Sau khi ấy, Người đề nghị truất bớt phân nửa số tiền chợ của chức sắc lớn, để thêm vào số tiền chợ cho hàng Đạo Hữu. Đồng thời Người cho kiểm soát chu đáo mọi việc thâu xuất lúa gạo, lương thực nơi phòng trù.
Kết quả là vừa tiết kiệm được nhiều tiền bạc lương thực cho Hội Thánh, vừa nâng đỡ mực ăn uống cho hàng Đạo Hữu. Về mặt tinh thần, chế độ giai cấp về ăn uống được xoá bớt; tình cảm chung giữa mọi người trên dưới được thêm xiết chặt.
Tóm lại các công việc sắp đặt đầu tiên của Người tại Toà Thánh gồm có mấy điểm chánh:
1. Gây lại được sự tín nhiệm của Chánh Phủ và nhơn sanh đối với nền Đạo
2. Xúc tiến việc Giáo Hoá, phát triển cơ Phổ độ
3. Mở mang Thánh Địa và khởi công tạo tác Toà Thánh
4. Cải thiện mức sinh hoạt vật chất nơi Toà Thánh
5. Tận tâm điều đình mưu hoà nội bộ
V. TƯ ĐỨC CỦA ĐỨC GIÁO TÔNG
“Ông Phủ Ba hiền như Phật”
“Ông Phủ Ba thật từ bi”
Hai câu nầy thường được chư Đạo Hữu luôn miệng ca tụng Người hằng ngày.
1) LÒNG TỪ BI
Tư đức chói sáng nhứt của Người là lòng từ bi. Người không bao giờ rầy la quở phạt một ai cả, chỉ thân ái để lời dạy dỗ khuyến khích an ủi mà thôi. Đối với kẻ lỡ phạm lỗi, Người hết lòng chỉ giáo, bao dung tha thứ. Không bao giờ ai thấy Người nóng giận, hay chống nghịch, hay xuyên tạc một vị nào trong hàng chức sắc ngang phẩm hoặc trên mình.
Người luôn luôn gần gũi chu đáo giúp đỡ cho kẻ nghèo thiếu ốm đau.
Đối với thú cầm, Người cũng tỏ lòng thương yêu tràn trề. Như mùa nắng hạn, rừng khô, thú cầm thiếu nước uống gầm thét inh ỏi. Người liền tổ chức gánh nước vào rừng cho chúng uống.
Đối với côn trùng, mỗi khi cỡi xe đi gặp đàn kiến hay mối kéo ngay qua lộ, Người liền xuống xe dỡ hổng nhắc qua, để tránh cán chết những vật ấy.
Đối với thảo mộc, Người cũng thi thố lòng từ bi hiếm có. Người có một vườn kiển, nhưng không cho cắt cây vô cớ, không cho uốn nhánh sửa cành thành hình nầy hình nọ. Người dạy rằng: Hãy để cho cây kiển lên tự nhiên mới đẹp; nếu cắt hay uốn tức là làm cho cây mất tự do và đau đớn tội nghiệp.
2) SỰ CHUYÊN CẦN
Trong sự làm việc, Người đã nêu sáng gương chuyên cần đặc biệt.
Sáng sớm, Người thức dậy vào 5 giờ, cúng rồi tịnh đến 6 giờ ra ăn cháo, đọc sách báo.
7 giờ đến Văn phòng làm việc.
8 giờ cỡi xe đạp đi viếng các sở: Học đường, Hạnh đường, Dưỡng đường, các cơ sở công nghệ và 9 sở rẫy.
10 giờ trở về Văn phòng làm việc.
11 giờ cúng rồi tịnh.
1 giờ ra tịnh, ăn cơm rồi đọc sách báo.
1 giờ rưỡi đến Văn phòng làm việc.
3 giờ đi viếng các Văn phòng và các cơ quan nội phận Cửu viện, phòng trù...
5 giờ cúng rồi tịnh.
7 giờ tối xả tịnh ăn cháo, đọc sách báo.
8 giờ làm việc giấy tờ đến 11 giờ tại thơ phòng.
11 giờ cúng rồi tịnh.
1 giờ ra tịnh rồi nghỉ.
Trên mọi công việc, Người luôn luôn sốt sắng hoạt động và tận tâm.
Trong buổi còn làm việc Quan, Người đã được tiếng là: làm, chỉ biết rồi việc, chớ không biết hết giờ. Ngày nay với công việc Đạo vĩ đại, Người càng thêm nổ lực không ngừng. Số giờ làm việc hằng ngày của Người kết thành một thời dụng biểu hiếm có vậy.
3) CÁCH XỬ SỰ THƯƠNG YÊU BÌNH ĐẲNG
Trong xử sự, Người luôn luôn lấy Đạo đức và công ích làm căn bản. Người chú ý tìm hiểu sát thật hoàn cảnh của mọi người trong cuộc và hết lòng săn sóc giúp đỡ. Ai cũng có thế bày tỏ mọi điều tâm sự khúc chiết với Người, và được nâng đỡ giải quyết thoả mãn.
Mỗi khi đến viếng nơi nào, Người chu đáo hỏi han về thân thế gia cảnh của mỗi em út, để tìm cách an ủi khuyến khích. Đặc biệt nhứt là lúc đến cũng như khi ra về, Người đều tìm đến bắt tay từ người một, từ chức sắc lớn chí em Đồng nhi nhỏ.
Ngoài ra người khuyên toàn Đạo đừng dùng tiếng “Đức” “Quan lớn” và “Ông” mà nên dùng tiếng Anh để xưng hô với Người trong văn từ hay trong câu chuyện.
Với cử chỉ khoan hoà, lời lẽ dịu dàng sáng suốt, với tình thương yêu bình đẳng hiếm có, với tinh thần mẫn cán gương mẫu, Người được toàn Đạo gần xa hết lòng kính mến.
VI. BUỔI ĐẠO CHINH NGHIÊNG
1) LỄ ĐĂNG ĐIỆN ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Ngày 17 tháng 2 Quí Dậu (12/3/1933), trong một cuộc nhóm bất thường tại Bửu điện Toà Thánh, Đức Hộ Pháp tuyên bố cử hành lễ Đăng Điện chức Quyền Giáo Tông cho Ngài Đầu Sư THƯỢNG TRUNG NHỰT. Ngự trên Ngai, Đức Quyền Giáo Tông thăng ba vị Chánh Phối sư (Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh) lên Quyền Đầu sư. Đồng thời, Ngài mời ba vị Hiệp Thiên Đài: Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, Khai Đạo Phạm Tấn Đải, Khai Thế Thái Văn Thâu qua chấp chưởng Quyền Chánh Phối sư (Xin nhắc lại trước kia, đã có Nghị định ngày 22/11 1930 của Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp, thăng ba vị Chánh Phối sư: Ngọc Trang Thanh, Thượng Tương Thanh, Thái Thơ Thanh lên Đầu sư rồi).
2) NHÓM THƯỢNG HỘI VÀ HỘI VẠN LINH
Ngày 16/4/1933 (22/3 Quí Dậu) nơi Bửu Điện có cuộc nhóm Thượng hội, do Ngài Quyền Đầu sư Ngọc Trang Thanh chiêu tập. Hội nhóm có mặt 6 Hội viên Thượng hội, vắng mặt 3. những vị có mặt là: Thượng Sanh Cao Hoài Sang (Nghị trưởng), ba vị Quyền Chưởng Pháp (Bảo Thế Lê Thiện Phước, Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, Hiến Đạo Phạm Văn Tươi), Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh. Ba vị vắng mặt là Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp và Ngài Quyền Đầu sư Thái Thơ Thanh (vị sau nầy vì bịnh nên có thơ xin vắng mặt). Ngài Quyền Ngọc Đầu sư đưa ra cuộc nhóm xét 12 khoản về Đức Quyền Giáo Tông. Toàn Hội thảo luận và đồng công nhận Đức Quyền Giáo Tông có phạm phải.
Sau, 5 Hội viên Thượng hội (Thượng Sanh, ba vị Quyền Chưởng Pháp, Quyền Ngọc Đầu Sư) ký tên tờ “Đôi lời tâm huyết” ngày 28/5/1933, mời nhóm Hội Vạn Linh để đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề trên.
Ngày 11/6/1933 (19/5 Quý Dậu) Hội Vạn Linh nhóm tại Bửu Điện Toà Thánh. Cuộc nhóm nầy vắng mặt: Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp, hai Ngài Quyền Thái và Thượng Đầu sư .
Hội thảo luận và công nhận theo quyết nghị của Thượng Hội ngày 16/4/1933.
Sau hai cuộc nhóm, tinh thần của Đạo từ nội bộ Toà Thánh đến các Họ Đạo đều hoang mang chán nản. Từ đây Chánh quyền tỏ ra thêm gắt gao với Đạo.
Đối với mọi việc chinh nghiêng, Người hết dạ can gián dung hòa, nhưng không kết quả.
Một mặt là lánh chỗ không an, một mặt lo lắng Đức tin của nhơn sanh, Người đi thăm viếng dạy dỗ trấn an các Họ Đạo. Người trực tiếp với Chánh quyền. Nhơn danh là người chịu trách nhiệm cầm giềng mối Đạo, Người bảo kiết về an ninh và tự do tín ngưỡng cho bổn đạo các Thánh Thất.
3) BỊ NGƯNG QUYỀN ĐẦU SƯ
Ngày 10/8/1933, Người ra tờ Châu tri số 7 tỏ cho trong Đạo biết rằng: Sau khi đi thăm viếng Đạo nơi các Thánh Thất vừa về đến Toà Thánh, Người nhận được Nghị định của Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp, ký tên ngày 28/7/1933, ngưng quyền hành Đầu Sư của Người và Ngài Quyền Ngọc Đầu sư, vì lý do: “Hai vị đã hội nhóm đặng toan phá Đạo”.
Người tỏ rằng: “Việc nhóm hội là việc bổn phận của ông Ngọc Đầu sư lãnh quyền sửa trị trong nền Đạo. Còn tôi thì lo phần Giáo dục trong Đạo. Tôi chỉ có dùng lời cung kính êm thuận mà can gián Anh Cả (Đức Quyền Giáo Tông).
Tôi phải ôm lòng để cho ông Ngọc Đầu sư làm phận sự của ông, chớ tôi không có hiệp tác trong phận sự của ông lần nào hết..”
Nhờ những lời Châu tri rất ôn hoà ấy mà không khí trong nền Đạo được êm dịu lại đôi phần.
4) TỜ HIỆP HOÀ NGÀY 27/12/1933
Ngày 26/12/1933, nơi Nữ Chánh Phối sư đường có cuộc hội họp của mấy chức sắc lớn: Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp, ba vị Quyền Đầu Sư và Nữ Chánh Phối sư. Cuộc họp có mục đích cởi mở thắc mắc để dung hoà nhau điều hành việc Đạo. Kết quả là:
Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp nhận rút lại tờ Nghị định ngưng quyền hành hai vị Quyền Đầu Sư và phục hồi địa vị cũ.
Ngài Quyền Ngọc Đầu Sư bằng lòng bỏ qua và xoá bỏ các điều mà Ngài đã đưa ra giữa các hội.
Ngày 27/12/1933 (11/11 Quý Dậu) Đức Quyền Giáo Tông làm một tờ giao nền Đạo cho năm vị chức sắc lớn lo điều đình, để Ngài được an dưỡng thân thể. Năm vị chức sắc ấy là: Hộ Pháp, ba vị Quyền Đầu Sư và Nữ Chánh Phối sư. Cả thảy đều ký tên hiệp ý với mạng lịnh trên. Đồng thời năm vị ra tờ Bố cáo số 150 ngày 27/12/1933 gởi cho toàn Đạo được hay biết.
5) SỰ CHINH NGHIÊNG TRỞ LẠI
Ngày 29/1/1934 Đức Quyền Giáo Tông viết thơ cho Đức Hộ Pháp, dạy lãnh luôn chức Quyền Giáo Tông đặng điều đình mối Đạo. Nguyên văn có đoạn như sau: “…quyền hành trách nhậm Quyền Giáo Tông giao lại cho một mình Hộ Pháp định liệu, rồi ban mạng lịnh cho toàn Đạo tuân cứ…”. Đức Hộ Pháp đặng thơ rồi nội ngày ra lịnh cho Quyền Thượng Đầu Sư phải làm việc nầy việc khác. Như thế là trái hẳn lại tinh thần tờ hoà hiệp ngày 27/12/1933.
Đến ngày 4/2/1934, Đức Quyền Giáo Tông lại cho ra thêm một tờ phổ cáo chúng sanh, phá tan tinh thần hoà hiệp, và kết tội hai Ngài Quyền Đầu Sư Ngọc Trang Thanh và Thượng Tương Thanh.
Đến ngày 22/2/1934, nhằm ngày vía Đức Chí Tôn tại cuộc nhóm nơi Bửu điện, Đức Hộ Pháp khai rằng không đủ tài cầm hai quyền một lượt , nên đã giao lại Đức Quyền Giáo Tông rồi.
Ngày 5/3/1934, Ngài Ngọc Quyền Đầu Sư ra bức thơ số 154 để đính chánh tờ Phổ cáo của Đức Quyền Giáo Tông và nói rõ những sự thiệt hư trong nội bộ. Thế là cơ Đạo lại lâm vào một hoàn cảnh rối rắm gắt gao, không phương hoà giải được nữa.
Muốn trách chỗ bất hoà, Người bèn lui về Đất Đỏ (Bà rịa), vào núi Kỳ Vân ẩn tu.
6) VỀ BÌNH HOÀ VÀ AN HỘI HÀNH ĐẠO
Nhưng không bao lâu, nhiều phái đoàn nhơn sanh và chức sắc đến yêu cầu Người trở ra hành đạo để dìu dắt nhơn sanh đúng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn đã dạy lúc ban đầu. Ngày 24/7/1934, Người trở lại hành đạo. Người ra tờ Châu tri số 3 cho toàn Đạo hay: Người đã trở lại hành đạo, nhưng vì không thể ở nơi Toà Thánh được, nên tạm lập Văn phòng nơi hai Thánh Thất: Bình Hoà (Gia định) và An Hội (Bến Tre), để lo chấn chỉnh nền Đạo lại.
Việc không thể ở hành Đạo tiếp tục nơi Toà Thánh được nữa là vì những lý do: Sự khủng khoảng nội bộ, không thể giàn xếp được.
Bàn viết nơi văn phòng Đầu Sư có đủ các hồ sơ tài liệu hành Đạo…đều bị chiếm mất, đòi nhiều lần không trả lại.
Nhà ở cũng bị chiếm, một Đạo Hữu ở giữ nhà bị đưa ra khỏi cửa Toà Thánh cấm không cho trở lại.
VII. TIỂU KẾT VỀ ĐOẠN ĐỜI HÀNH ĐẠO TẠI TÂY NINH
Với mấy hành Đạo tại Toà Thánh, Người đã bắt đầu bước vào giai đoạn Thánh Đạo trong Ngũ Chi Đại Đạo của Tam Kỳ Phổ Độ. Người đã trọn hy sinh tư kỷ: vứt bỏ mọi danh vọng lợi quyền của quan trường, ly gia cắt ái, phế hết các việc gia đình để trọn hiến thân hành đạo. Vì danh Đạo Người hy sinh cả lòng tự ái cá nhơn; không một tiếng giận hờn, không một lời tranh chấp đối với mọi cơn khảo thí đưa đến. Luôn luôn giữ dạ từ bi, đức tin mạnh mẽ, Người chỉ biết khuyên lơn nhẫn nhịn để mưu hoà, chỉ biết quì hương cầu nguyện để cảm hoá, chỉ biết hành đạo phổ thông giáo lý để cứu độ nhơn sanh. Người đã thực hiện được trọn vẹn lời Thánh Giáo mà Đức Chí Tôn đã dạy cho Người rằng : “Thầy để cho con chịu lắm sự nhọc nhằn đau thảm, song có vậy mới đặng, vì CON LÀ ĐẠO, ĐẠO LÀ CON. Thầy mừng cho hạnh đức con rất hạp cùng lý Đạo. Thầy dặn con phải ẩn nhẫn chịu khổ hạnh, cho lẽ Đạo được rỡ ràng. Đạo nhờ con mà nên, con vì Đạo mới ra đáng mặt…”


=====


PHẦN THỨ BA

Đoạn đời tích cực hành Đạo
nơi Bến Tre (1934 – 1942)

I. GIAI ĐOẠN CHỈNH ĐẠO (1934 – 1938)
A. CHÂU TRI SỐ 3, SỐ 4, SỐ 5
Không thể hành Đạo được nơi Toà Thánh Tây Ninh, không thể ẩn tu nơi non cao rừng thẳm, vì sứ mạng thiêng liêng phải dìu dắt nhơn sanh cho trọn vẹn đường tu, Người đành phải hiệp với Ngài Quyền NGỌC ĐẦU SƯ và chư vị chức sắc bên Hiệp Thiên Đài, lo chỉnh đốn nền Đạo lại.
Đầu tiên, Người ra tờ Châu tri số 3, nguyên văn như dưới đây: CHÁNH PHỐI SƯ Quyền ĐẦU SƯ THƯỢNG TƯƠNG THANH gởi cho chư chức sắc, chức việc và Đạo Hữu nam nữ.
Chư Hiền Hữu,
Hèn lâu tôi rất tiếc phải tạm ngưng phận sự hành đạo, cũng vì nơi cơ đạo chinh nghiêng, làm cho việc giáo dục phải chịu bề trắc trở.
Ghe phen tôi muốn lánh chốn thị phi, ẩn nơi êm tịnh mà lo tu hành. Song vì trước đã lập nguyện khi thọ mạng lịnh hành Đạo nơi Đại Từ Phụ và Đức Lý Giáo Tông, nên không dám phế phận; phải náo nương ẩn nhẫn cho qua hồi khảo đảo.
Nay đến thời kỳ Chỉnh Đạo, tôi phải thi hành phận sự của Thầy và Đức Lý phú thác, là lo giúp vịệc chấn chỉnh nền Đạo và việc giáo dục nhơn sanh. Cũng vì từ ngày Anh Cả ra mạng lịnh số 21 và Phổ Cáo chúng sanh ngày 4/2/1934, làm cho sự hoà bình tan rã, nên cực chẳng đã tôi phải tạm ở đỡ nơi Thánh Thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre) mà giúp Thầy Chỉnh Đạo. Chừng nào có lịnh Thầy dạy, tôi sẽ trở về Toà Thánh Tây Ninh mà chung lo qui hiệp.
Vậy từ đây sự giao thiệp với chư Hiền Hữu sẽ nối tiếp lại như xưa. Nơi nào tôi chưa đến được, thì tôi sẽ phái người thay mặt đến viếng thăm và nhắc nhở sự tu hành, xin chư Hiền Hữu vui lòng giao tiếp.
Về Cơ Chỉnh Đạo, tôi cũng nên cho chư Hiền Hữu rõ biết. Sau mấy hồi rắc rối trong Đạo, là mấy hồi khảo thí từ chức sắc đến tín đồ, thì nơi thiêng liêng tự nhiên có cuộc chấm thi, tức là cuộc cân công chiết tội. Ai được khuyên điểm, sẽ được nhập vào Cơ Chỉnh Đạo, có Thầy và chư Thần Thánh đến dạy dỗ bố hoá trong tâm của những người hữu duyên ấy.
Nhân dịp tôi xin chư Hiền Hữu cứ giữ một lòng tin tưởng chắc có Thầy là Đấng Chí Tôn khai Đạo. Ai rủi sa ngã trong lúc Đạo chinh nghiêng, xin mau trở lại.
Hãy quên hết các sự giận hờn phiền phức và nghịch lẫn nhau đã nảy sanh ra trong lúc xung đột, vì là nét hư của tà tình xúi giục đó. Phải mở trọn lòng thương yêu nhau hằng bữa chẳng luận là khác chi khác phái. Đừng thấy người nhẹ tính bước lầm qua đường khác mà ghét mà nghịch; phải thương phải độ mới gọi là nhơn. Hãy khoan dung tha thứ cho nhau hết thảy những điều đã gây hờn chác hại cho nhau trong cơn bị khảo dượt. Phải ráng nhớ rằng : cái lòng thương yêu tràn trề là chìa khoá mở cửa Bạch Ngọc Kinh. Tu là tập sửa mở mang đem cái lòng của mình lần lần lên cho đến bực từ bi bác ái mà lãnh chìa khoá ấy.
Tôi cũng xin khuyên chư Hiền Hữu hãy cẩn thận đừng vội nghe những lời cám dỗ, những lời bịa đặt vu oan cho người, mà buồn chí ngã lòng xu hướng qua nơi khác. Xin cứ giữ đường ngay, noi theo gương tốt mà đi tới, thì sau cũng chắc được về Thầy. Hãy đừng vọng tưởng, ham thấy huyền diệu, mà rủi phải lầm theo tà Đạo thì sợ sau ăn năn đã muộn.
Trước khi gác bút, tôi thành tâm cả kêu trong Đạo, những bậc Hiền Nhân có Đạo Tâm, có chí thành, xin hãy tưởng đến nền Đạo buổi nầy rất chinh nghiêng đã lắm phen muốn đổ. Xin chư Hiền Hữu may được Thần Thánh bố hoá nơi tâm thì hãy vui hiệp với ông Quyền NGỌC ĐẦU SƯ và tôi mà lo giúp Thầy Chỉnh Đạo. Gom cả tấc dạ nhiệt thành vì Đạo mà tạo nên một khối Từ bi, Bác ái lớn to, hầu để lại cho chúng sanh cọng hưởng. Ấy là sự kết quả đáng ước ao hơn hết đó.
Tiếp được Châu tri nầy và các Châu tri sẽ gởi đến nữa, xin chư Hiền Hữu vui lòng truyền lại cho hết thảy trong Đạo Hữu rõ biết. Tôi cầu nguyện xin Đại Từ Phụ và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ban ơn bố hoá cho chư Hiền Hữu mau mau bước trọn vào đường Đạo Đức tu hành được vượt qua biển khổ, tránh khỏi các tai ương”
Thánh Thất An Hội (Bến Tre) ngày 24 tháng 7/1934 (13/6 Giáp Tuất)
THƯỢNG TƯƠNG THANH
Tiếp theo Châu tri số 3, Người hiệp cùng Ngài Quyền NGỌC ĐẦU SƯ ra tờ châu tri số 4, nguyên văn như sau:
THƯỢNG và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ Q. ĐẦU SƯ gởi cho chư chức sắc, chức việc, chủ Thánh Thất và Đạo Hữu nam nữ.
Chư Hiền Hữu,
Đương buổi nầy, nền Đạo rất chinh nghiêng như người bịnh ngặt nghèo, cần cứu chữa gấp mới mong tránh khỏi sự hiểm nguy. Đối với bịnh Đạo hiện thời, chúng tôi tưởng không phương chi hay hơn là dùng toàn lẽ Đạo mà trị.
Vậy chúng tôi hiệp nhau nhứt định lập một Chương trình Chỉnh Đạo, tuyên bố dưới đây cho chư Hiền Hữu rõ biết.
Vị nào vui lòng hưởng ứng xin hiệp với chúng tôi mà lo chấn chỉnh nền Đạo lại cho kịp.
CHƯƠNG TRÌNH CHỈNH ĐẠO VỀ NGƯỜI GIỮ ĐẠO
Điều thứ nhứt: Trong hàng chức sắc và Đạo Hữu, vị nào đồng lòng muốn hiệp với chúng tôi mà lo chấn chỉnh nền Đạo, thì trước phải nguyện giữ tròn Tân Luật và Pháp Chánh Truyền (đình chú giải). Phải thật hành Ngũ Giái Cấm; chức sắc lãnh phận sự hành chánh phải giữ thêm Tứ Đại Điều Qui.
Điều thứ hai: Mỗi vị đã vào chung lo Chỉnh Đạo thì phải trau giồi đức hạnh hằng ngày, làm cho nên gương trong sạch lành tốt chẳng nhiều thì ít, cho người chung quanh mình trông vào thấy được. Nghĩa là chúng ta vui lòng chung hiệp yến sáng gương lành của nhau làm một, cho đến tỏ rạng soi khắp nơi nơi.
Điều thứ ba: Muốn nên được gương lành ấy, cần nhứt phải thật hành chủ nghĩa Từ Bi, Bác ái.
Phải giữ đừng để lòng nảy sanh giận hờn ganh ghét đến một ai hết. Cứ để trọn lòng thương mà đối đãi với nhau.
Vì vậy mà phải cấm nhau không được rầy rà cãi lẫy lớn tiếng với nhau, phải giúp đỡ dìu dắt nhau như tình ruột thịt.
VỀ THÁNH THẤT
Điều thứ tư: Nơi các Thánh Thất phải y nhau một cách đọc kinh và hành các lễ. Trong ngày lễ sóc vọng sẽ có chức sắc đến giảng Đạo hay là gởi bài giảng đến.
Nơi Thánh Thất lớn có chỗ rộng rãi, mỗi tháng 10 ngày, sẽ có chức sắc đến chỉ dạy chức việc nhứt là về phận sự hành Đạo.
VỀ BAN CHỈNH ĐẠO
Điều thứ năm: Sẽ có một Ban Chỉnh Đạo để bàn tính với hai vị Q. Đầu sư các việc Đạo trước khi thi hành. Ban nầy của các Họ Đạo hiệp nhau chọn cử trong hàng chức sắc hay là Đạo Hữu có Đạo Đức và trí thức, nhất là để lo chấn chỉnh nét tu, khép trọn vào khuôn hạnh, gom hiền góp đức mà làm cho ra vẻ Đạo thành.
Điều thứ sáu: những chức sắc và Đạo Hữu lưỡng phái xem Chương trình nầy rồi, vui lòng thuận theo thì hãy đến trước Thiên Bàn trong một thời cúng, nguyện với Thầy làm y như vậy, rồi cứ lo thật hành theo đó. Chừng nào có người của chúng tôi phái đến các Họ Đạo, thì được hỏi thêm cho rõ, rồi tỏ sự quyết định của mình.
Hiện nay chúng tôi tạm ở nơi Thánh Thất Bình hoà (Gia định) và Thánh Thất An Hội (Bến Tre) mà lo phận sự giúp Thầy Chỉnh Đạo cho đến thành. Rồi tới ngày giờ Thầy định, sẽ về Toà Thánh Tây Ninh mà chung lo qui hiệp với những người chơn chánh.
Những thơ từ gởi cho chúng tôi, thì đề về Gia Định hay là Bến Tre thì chúng tôi sẽ được hết.
Thánh Thất Bình Hòa ngày 27/7/1934 (16/6 Giáp Tuất)
THƯỢNG TƯƠNG THANH
NGỌC TRANG THANH
Tiếp theo đó tờ Châu tri số 5 đề ngày 26/9/1934. Người và Ngài Q. Ngọc Đầu Sư khuyên trong Đạo ai đã nhìn nhận chung lo việc Chỉnh Đạo, thì hãy cử một phái viên nơi mỗi Họ Đạo, để về nhóm Đại hội, công cử một Ban Chỉnh Đạo.
Châu tri nầy cũng dạy sắp đặt Ban Hành Thiện nơi mỗi làng, để thực hành chủ nghĩa Từ Bi, Bác Ái cho tỏ rõ trong toàn Đạo, Ban Hành Thiện chủ trương chung lo giúp đỡ lẫn nhau, từ tật bịnh tai nàn đến việc Quan Hôn Tang Tế; lập đủ Lễ Nhạc Đồng nhi, làm thuyền Bát Nhã, tạo nghĩa địa….
B. ĐẠI HỘI THÀNH LẬP BAN CHỈNH ĐẠO
Ngày 14 tháng 10 Giáp Tuất (20/11/1934), toàn Đạo nhóm Đại Hội nơi Thánh Thất An Hội, hiện diện 85 vị phái viên thay mặt cho 85 Họ Đạo trong 18 tỉnh Nam Phần. Số người dự tính hết thảy được chừng 1300 vị.
Đại Hội tán thành Chương trình Chỉnh Đạo và thành lập một Ban Chỉnh Đạo do phái viên của 18 tỉnh công cử. Thành phần Ban Chỉnh Đạo như dưới đây:
Bạc Liêu: Ô. Phạm Văn Sở, Nghiệp chủ Thới Bình.
Bà Rịa: Ô. Ngô Văn Quyển, Chánh trị sự Phước Thọ.
Ô. Lê Háo Học, Giáo Hữu (Đại điền)
Ô. Lê Tam Tỉnh, Thông sự Thạnh Ngãi.
Biên Hoà: Ô. Mai Văn Thành, Chánh Hội trưởng An Thành.
Cần Thơ: Ô. Trần Văn Nhân, Nghiệp chủ Phong Thạnh.
Châu Đốc: Ô. Phan Duy Cai, Giáo viên Phú Lâm.
Ô. Nguyễn Văn Chất, Cựu Hội đồng Tân Kim.
Ô. Nguyễn Duy Thuần, Chánh Thủ bổn Tân Lân.
Ô. Ngọc Kinh Thanh, Giáo sư (Bình Hoà)
Ô. Thượng Bộ Thanh, Giáo Hữu (Thuận Kiều)
Gò Công: Ô. Nguyễn Tuấn Mai, Chánh Từ hàn Tân Niên Trung.
Long Xuyên: Ô. Lê Văn Thơ, Nghiệp chủ Tân Thạnh.
Mỹ Tho: Ô. Phạm Hữu Hạnh, Chánh bái Giao Hoà.
Rạch Giá: Ô. Huỳnh Tấn Đức, Nghiệp chủ Hoả Lựu.
Sa Đéc: Ô. Lê Minh Phong, Chánh Quản lý Học viện Kim Bửu.
Sóc Trăng: Ô. Lê Văn Yên, Chánh trị sự An Thạnh Nhì.
Tân An: Ô. Nguyễn Văn Lưu, Chủ Thánh Thất Bình Quới.
Tây Ninh: Ô. Phạm Văn Ngọ, Sĩ tải Thái Bình Địa.
Trà Vinh: Ô. Phạm Trung Đô, Đầu Quận Đạo (Đa Lộc).
Vĩnh Long: Ô. Nguyễn Văn Lưu, Nghiệp chủ Sơn Định.
Hội uỷ nhiệm cho Ban Chỉnh Đạo hiệp với hai vị Q. Thượng và Ngọc Đầu sư mà hành Đạo cho đến ngày qui hiệp về Tây Ninh.
Ban Chỉnh Đạo quyết định sẽ mở một lớp học Đạo (Hạnh đường) dạy chức sắc chức việc nơi hai Thánh Thất Bình hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre); sẽ lập một cuốn Lễ bổn về Quan, Hôn, Tang, Tế tạm dùng trong Đạo.
C. ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT QUI LIỄU
Ban Chỉnh Đạo vừa thành lập buổi sáng; chiều tái nhóm thì tiếp được điện tín trên Toà Thánh Tây Ninh gởi đến, cho hay Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đã qui liễu. Người xin hội để 5 phút tịnh tâm tưởng niệm người Anh cả đã dày công buổi khai Đạo, và khuyên các Họ Đạo hãy lập Đàn cầu nguyện và để tang cho Ngài.
Kế Người và Ngài Quyền Ngọc Đầu Sư đi về Toà Thánh để dự lễ an táng.
Cơ Chỉnh Đạo ra đời, chính là ngày Đức Quyền Giáo Tông qui vị. Đó cũng là một điềm Thiên cơ chứng minh Ban Chỉnh Đạo thiệt là của Đại Từ Phụ dạy mở, và có Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật giúp sức.
D. THÀNH LẬP HỘI THÁNH
Ngày 5/12/1934, Người ra tờ Châu tri số 7 cho trong Đạo biết rằng: sự hoà hiệp chưa giải quyết được, mặc dầu Đức Quyền Giáo Tông đã qui vị. Vì đó mà Người và Ngài Quyền Ngọc Đầu Sư còn phải tạm ở Bình Hòa và An Hội để lo chấn chỉnh nền Đạo. Người khuyên các Họ Đạo mau sắp đặt cho xong Ban Hành Thiện, rồi đi cầu an và tụng kinh mỗi nhà Đạo hữu, để cầu cho nền Đạo sớm được trở lại hoà bình.
Đến ngày 15/12/1934, Người cùng Ngài Q.Ngọc Đầu sư và Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu ký tên bức thơ số 8, mời toàn Đạo nhóm Đại hội tại Thánh Thất An Hội (Bến Tre)
Ngày 18/11 Giáp Tuất (24/12/1934), cuộc nhóm Đại hội có mặt: 2 vị Q. Thượng và Ngọc Đầu sư, Bảo Pháp Nguyễn trung Hậu, Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, 7 vị Giáo sư, 27 Giáo hữu, 40 vị Lễ sanh; Nữ Phái có 3 Giáo sư, 1 Giáo hữu và 3 Lễ sanh. Hội nghĩ vì: Ban Chỉnh Đạo chưa thể hiệp về Toà Thánh, thì cần phải lập hình thể Hội Thánh mới có đủ huyền năng theo luật lệ mà hành Đạo. Cần phải có Chưởng Pháp để hiệp với Đầu sư mà hành chánh, thì mới đúng theo lẽ Đạo.
Hội đồng công cử Ngài Quyền Ngọc Đầu sư Ngọc Trang Thanh làm Thượng Chưởng Pháp, và giao cho Ngài tạm cầm giềng mối Đạo.
Kế tiếp, Hội cử 3 vị tạm Q. Chánh Phối sư, Bàn Cửu viện cũng được thành lập. Một vị chủ trưởng Nữ phái cũng được hội chọn cử luôn. Cuối cùng Hội định mời nhóm Hội Vạn Linh vào ngày 8 tháng giêng năm Ất Hợi để công cử người cầm giềng mối Đạo thiệt thọ.
E. HỘI VẠN LINH
Hội Vạn Linh nhóm từ mùng 8 đến 11 tháng giêng Ất hợi (11 đến 14/2/1935) tại Thánh Thất An Hội.
Bài diễn văn khai mạc do Đức Thượng Chưởng Pháp (Chủ tọa) đọc giữa Hội, lược chép ra như dưới đây: “…Sở dĩ gọi Hội Vạn Linh là vì Hội nầy gồm toàn các phần tử trong Đạo, từ Chức sắc Đại Thiên Phong cho đến tín đồ. Ấy là Hội lớn hơn hết trong Đạo vì Hội Vạn Linh gồm cả ba: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh , và Thượng Hội.
Quyền của Hội Vạn Linh tự nhiên phải lớn hơn các quyền trong Đạo. Thánh Giáo có dạy rằng quyền Vạn Linh đối với quyền của Đức Chí Tôn. Vạn Linh nhứt định tức là Đức Chí Tôn nhứt định vậy, vì nhơn tâm tức Thiên ý.
Hội Vạn Linh để định đoạt những việc tối trọng của Đạo, mà không Hội nào khác định được, ví dụ như việc chọn cử người cầm giềng mối Đạo. Vì sao mà có nhóm Hội Vạn Linh hôm nay ?.
Nguyên khi Anh cả chúng ta là Ông Thượng Trung Nhựt qui liễu rồi, thì bên Cửu Trùng Đài khuyết vị thay thế cho Thầy mà làm chủ quyền Đại Đạo tại thế. Hễ thiếu, thì tự nhiên phải có người thay, chớ không nên để trống, vì nếu không ai làm đầu, thì làm sao mà cử động hình thể được. Trong Hội Thánh hiện thời, những Chức sắc Đại Thiên phong đứng kế Anh Cả là 3 vị Q. Đầu Sư, sắp theo thứ tự thọ phong trước sau là: Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh và Thái Thơ Thanh.
Hồi mới khai Đạo tới nay, có nhiều Thánh Giáo của Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông cho biết trước phận sự của Ông Thượng Tương Thanh ngày sau là người cầm giềng mối Đạo.
Tôi trích lục vài đoạn Thánh Giáo ấy ra đây cho chư Hiền Hữu rõ:
1) Thánh Giáo năm Thìn ngày 16/7/1928, Đàn tại Quận Xuyên mộc tỉnh Bà rịa, Hộ Pháp và Thượng Phẩm phò loan. Ông Thượng Trung Nhựt, Thượng Tương Thanh, Thái Thơ Thanh và Nữ Chánh Phối sư Hương Thanh chứng Đàn.
“Thầy các con…Tương, con nhớ lời Thầy, con vốn con tin của Thầy giao cho Chánh phủ. Nhờ con, mà nền Đạo mới ra lẽ chơn chánh trước mặt Chánh phủ và chúng sanh. Thầy để con chịu sự nhọc nhằn đau thảm, song có vậy mới đặng, vì con là Đạo, Đạo là con. Thầy rất mừng cho hạnh đức con, rất hạp cùng lý Đạo. Thầy dặn con phải ẩn nhẫn, chịu khổ hạnh cho lẽ Đạo đặng rỡ ràng. Đạo nhờ con mà nên, con vì Đạo mới ra đáng mặt….
Ôi ! con yêu dấu ôi!, Nếu mỗi đứa anh con đều đặng như con vậy, Đạo chưa ra đến nỗi nầy. Thầy nhiều phen ứa lụy! Con hiểu ý Thầy. Thầy biết bụng con, con rán chịu, Thầy xin con đừng sầu thảm mà động đến Thầy…”
2) Và Thánh Ngôn ngày 14/8/1931, năm Mùi, Đàn nơi Bửu Điện Toà Thánh Tây Ninh, Hộ Pháp và Văn Pháp phò loan, Ông Thượng Trung Nhựt, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh, Thái Thơ Thanh và Hương Thanh chứng Đàn: “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Lý Giáo Tông…Ngọc Trang Thanh!, kêu Thượng Tương Thanh…
Thượng Tương Thanh, Lão mừng Hiền hữu đó. Lão vì Chí Tôn đã hứa, mà lo lập vị cho đáng giá, thì Hiền hữu phải tận tâm mà chung lo với Lão mới phải. Ngày nay đã Hành Chánh, thì cũng nên tập cho mình có đủ tư cách người cầm sanh mạng của nhơn loại…”
Cũng vì phẩm vị hiện thời của Ông Thượng Tương Thanh trong Hội Thánh, và cũng vì các lời Thánh Giáo của Thầy và Đức Lý dạy trước đó, nên tôi có ý tỏ muốn xin trong Hội Thánh công cử Ông Thượng Tương Thanh lên chấp chưởng nền Đạo cho thuận Thiên ý, cho hoà Luật Đạo. nhưng Ông Thượng Tương Thanh nằng nằng không dám, vì bởi Đạo đã phân rẽ nhiều chi nhiều phái; lại Thánh Giáo Thầy và Đức Lý dạy cũng đã lâu rồi, chưa biết nhơn sanh còn để trọn đức tin nơi đó hay chăng?
Vả lại, sau khi an táng Anh cả chúng ta rồi, Ông Hộ Pháp lại nắm luôn quyền hành của phẩm Giáo Tông, lập Nghị định ngày 12/12/1934, ký tên như vầy: Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài, Hiệp Thiên và Cửu Trùng: Phạm Hộ Pháp. Việc nầy trái Luật Pháp: Hiệp Thiên Đài hay về phần thiêng liêng là phần hồn; Cửu Trùng Đài về phần hữu hình là phần xác. Hai Đài có quyền hành đặc biệt, không bên nào xâm lấn bên nào được. Nếu Chức sắc Hiệp Thiên Đài qua lần lần hết bên Cửu Trùng Đài, thì phải bỏ trống Hiệp Thiên Đài, tức là bỏ cho Hồn tan thì Xác phải rã.
Vì các cớ đã tỏ trrên đây nó rất trọng hệ cho nền Đạo, nên hai vị Quyền Đầu sư thi hành phận sự mình, nhóm Ban Chỉnh Đạo rồi nhóm Hội Thánh mà bàn tính về vấn đề tối trọng ấy. Song hai Hội nầy không giải quyết được, nên mới nhứt định mời nhóm Vạn Linh hôm nay . . .
Vì sao Hội Vạn Linh không nhóm nơi Toà Thánh Tây Ninh, lại nhóm tại Thánh Thất An Hội Bến Tre ?.
Ấy là tại mấy vị chức sắc nơi Toà Thánh Tây Ninh. Ông Thượng Tương Thanh có viết thơ ngày 11 tháng chạp (15/1/1935) xin ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc thuận tình để cho Hội Vạn Linh nhóm về Toà Thánh, cho có thể tán thành sự hoà hiệp cho nền Đạo đặng yên. Song Ông Hộ Pháp trả lời không thuận, nên ngày nay mới có nhóm tại đây.
Hội bỏ thăm tuyển cử rồi, bàn tính sắp đặt xong rồi sẽ nhứt định việc về Toà Thánh tưởng không muộn gì.
Đây tôi xin nhắc lại cho chư Hiền Hữu nhớ rằng: Thánh địa ở Tây Ninh, Ông Thượng Tương Thanh vẫn còn thay mặt cho Đạo đứng bộ làm chủ như trước. Không ai có quyền cản ngăn không cho Đạo theo Ông về Toà Thánh đặng.
Hội Vạn Linh nầy nhóm đủ phép theo Luật Đạo, vì là Hội Thánh nhóm ngày 24/12/1934, có 83 vị Chức sắc Thiên phong dự hội, hiệp với hai vị Quyền Đầu sư và hai vị Chức sắc bên Hiệp Thiên Đài nhứt định mời hội. Vả lại cái duyên cớ mời hội cũng đủ trong Châu tri mời nhóm gởi trước cho các Thánh Thất và đăng vào báo trước lâu ngày, tưởng cũng đủ thì giờ cho toàn Đạo đâu đâu đều được hay biết hết… ”
Thượng Chưởng Pháp
LÊ BÁ TRANG

Cuộc bỏ thăm do Đức Thượng Chưởng Pháp chủ toạ, bắt đầu từ 2 giờ rưỡi chiều ngày mùng tám, đến 6 giờ chiều ngày 10/1 Ất Hợi mới xong.
Ngày 9/1 Ất Hợi, Hội có bàn tính về đất Thánh Địa và các Thánh Thất. sau khi xét nét rồi, Hội Vạn Linh nhứt định để hết thảy tài sản của Đạo cho vị đắc cử cầm giềng mối Đạo đứng bộ làm chủ (Hội Vạn Linh có lập riêng lời nghị quyết nầy).
Ngày 11/1 Ất Hợi (14/2/1935) Ban trị sự khui thăm trước mặt số người dự Hội còn lối 1.000 người. Số thăm trong thùng là 5.353 lá, chia ra như dưới đây:
- Ông Thượng Chưởng Pháp được 27 tiếng.
- Ông Thượng Đầu Sư được 5.326 tiếng.
- Xin về Toà Thánh Tây Ninh hành Đạo 5.325 tiếng.
Trong số thăm 5.353 chia ra:
- 296 tiếng của Chức sắc nam nữ .................. 296
- 3.522 tiếng của chức việc nam nữ............. 3.522
- 1.535 tiếng của Phái viên thay mặt
mỗi người 100 Đạo Hữu (100 x 1.535)…153.500
Tổng cộng ………….……….………….157.318
Cuộc bỏ thăm nầy có 88 Họ Đạo trong 20 tỉnh đến dự. Tính chung chức sắc chức việc và phái viên nhơn sanh được tất cả là 157.318 tiếng.
Buổi chiều Đức Thượng Chưởng Pháp tuyên bố vi bằng khui thăm. Hội Vạn Linh đồng đứng dậy chào mừng Ông Đầu sư THƯỢNG TƯƠNG THANH đã đắc cử địa vị cầm giềng mối Đạo.
Người rất cảm động và tỏ lời rằng: “Thưa chư vị Hiền Hữu lưỡng phái.
Khi mở Hội Vạn Linh, tôi vì biết mình tài sơ đức thiểu, đã có tuyên bố rằng không ra dự cử, nhưng chư Hiền Hữu cũng tín nhiệm bỏ thăm cho tôi đại đa số như vậy, làm cho tôi rất cảm động. Tôi xin để lời cảm tạ ơn hết thảy chư vị Hiền Hữu còn ở lại đây và chư vị vắng mặt.
Vả chăng phận sự cầm giềng mối Đạo là rất lớn lao nếu chẳng biết chắc có thiên lực phò trì, thì không ai dám lãnh. Lòng tín nhiệm của Vạn Linh đã tỏ ra rõ ràng hôm nay, tôi tin thiệt là mạng lịnh của Trời định vậy. Nên tôi không dám từ nan, phải cúi đầu vâng chịu.
Chư Hiền Hữu đã có để lòng tin tưởng nơi tôi mà phú thác các gánh nặng nề nầy cho tôi, thì từ đây về sau, tôi cũng xin chư Hiền Hữu vùa giúp cho tôi lo tròn phận sự. Còn việc về Toà Thánh Tây Ninh, Vạn linh đã bỏ thăm “VỀ” gần trọn hết. Tôi vẫn cũng có lòng ước vọng như vậy, nhưng nghĩ lại sự về có điều trở ngại, nên phải làm sao về cho được êm ái hoà thuận.
Tôi tưởng phải nhờ Hiền Hữu Thượng Chưởng Pháp và Hội Vạn Linh ráng lo liệu giùm việc khó khăn nầy mới được”.
Xong, Đức Thượng Chưởng Pháp tuyên bố: Ông Đầu sư THƯỢNG TƯƠNG THANH đã nhận sự tín nhiệm của Hội Vạn Linh; ông cũng thuận tình về Toà Thánh hành Đạo. Còn lễ đăng điện cho người cầm giềng mối Đạo, tôi tưởng nên làm tại Toà Thánh Tây Ninh cho có đủ mặt các chi phái.
Toàn Hội đồng ý theo lời của Đức Thượng Chưởng Pháp và công cử ba Ngài: Thượng Chưởng Pháp, Thượng sanh (Cao Hoài Sang) và Bảo Pháp (Nguyễn Trung Hậu) về Toà Thánh điều đình trước việc hoà hiệp.
F. LỄ ĐĂNG ĐIỆN
Sự thương thuyết hoà bình của phái bộ Vạn linh với Toà Thánh Tây Ninh kéo dài mãi, nhưng sự kết quả chưa thấy lố dạng. Nên trong cuộc nhóm Hội Thánh ngày 6/4 Ất Hợi, theo ý kiến của Đức Thượng Chưởng Pháp, toàn Hội đều công nhận phải làm lễ Đăng điện tại Thánh Thất An Hội cho người cầm giềng mối Đạo, để có đủ sức thiêng liêng giúp đỡ mà làm tròn phận sự. Toàn Hội cũng đồng rập ý là đăng điện Giáo Tông cho người cầm giềng mối Đạo, đúng theo nhiều lời Thánh Giáo từ khi mới khai Đạo của Đại Từ Phụ và Đức Lý Đại Tiên (nhứt là do nơi Đức Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh với Bảo Văn Pháp Quân phò loan).
Lễ Đăng điện được cử hành long trọng vào thời Ngọ ngày 7/4 Ất Hợi (9/5/1935).
G. NHÓM HỘI THÁNH
Lúc bấy giờ đã nhập về Ban Chỉnh Đạo 96 Thánh Thất (trong số 135 cái của Đại Đạo) và được hơn phân nửa số Đạo Hữu chung trong Lục Tỉnh.
Cuộc nhóm đầu tiên của Hội Thánh được cử hành ngày 8/1 Bính Tý (31/1/1936) có mặt đông đủ chức sắc lưỡng đài lưỡng phái. Đại Hội đã chấp thuận một bảng chương trình gồm có 10 điểm như sau:
1. Về bốn hạng chức sắc.
2. Về sự hành Đạo của chức sắc.
3. Về công hạnh của mỗi bực chức sắc.
4. Về sắc phục mặc thường của chức sắc, chức việc.
5. Về tài chánh.
6. Về phước điền.
7. Về Nhà tu, Hạnh đường, Tiểu học đường.
8. Về vệ sinh.
9. Ban thường xuyên của Hội Thánh.
10. Ban uỷ viên kiểm dượt kinh sách.
Từ đây về sau, Hội Thánh làm việc thống nhứt tại Thánh Thất An Hội (Bến Tre) mà thôi, đúng theo hai câu sau đây trong bài Thánh thi:

“Nghe cơ hồi hướng về THÀNH TRƯỚC,
“Thầy dặn con ghi nhớ cõi lòng”.
H. ĐỨC THƯỢNG CHƯỞNG PHÁP QUI TIÊN
Ngày 29/5 Bính Tý (17/7/1936) Đức Thượng Chưởng Pháp liễu đạo tại Thánh Thất An Hội. Đức Giáo Tông gởi điện tín cho Đức Hộ Pháp và bà Nữ Chánh Phối sư Hương Thanh hay và xin an táng Đức Thượng Chưởng Pháp nơi Toà Thánh Tây Ninh. Đề nghị nầy được chấp thuận.
Ngày 21/7/1936, Đức Giáo Tông cùng hai vị chức sắc Hiệp Thiên Đài tiếp dẫn theo đủ nghi lễ Đạo, cuộc an táng nầy từ Bến Tre về Tây Ninh.
I. CÁC VIỆC CHỈNH ĐỐN MỞ MANG
Sau ngày qui vị của Đức Thượng Chưởng Pháp, công việc Đạo thêm nhiều nặng nề và mệt nhọc cho Đức Giáo Tông. Người phải tích cực làm việc, nhiều giờ hơn khi còn ở Tây Ninh. Đại để có những việc chỉnh đốn mở mang sau đây:
1) NGƯNG CƠ BÚT
Đặc điểm quan trọng hơn hết trong Ban Chỉnh Đạo là việc không dùng Cơ bút. Về vấn đề nầy, Đức Giáo Tông có dạy rằng:
“…Các chi phái hiện tại nảy sanh trong thời gian khảo thí, do Cơ bút bình thường tạo thành và dẫn dắt.
Nay sự hiệp một Chơn truyền phải định, lớp tuồng chia rẽ phải tan. Những Cơ bút ấy phải hết hiệu, và tự nhiên các Chi phái cũng phải xong rồi phận sự. Những Đạo hữu trước kia đã lầm nghe giáng Cơ cám dỗ, nếu nay biết trở lại Chơn truyền, thì sẽ được Ơn Trên tha thứ. Còn ai không thuận lẽ Trời, cứ đeo đuổi theo đường dục vọng ở riêng phe phái nữa, thì là tự đem mình ra ngoài cửa Đạo của Thầy, và hết được hưởng Đại Ân Xá kỳ ba của Trời ban...”
“…Tệ huynh đã nhiều lần nhắc nhở cho trong Đạo nhớ rằng: việc Cơ bút là tối trọng. Có hư hư thiệt thiệt, khó mà phân biện được. Vì vậy mà Thầy cấm Cơ bút từ tháng 7/1927 là khi Thầy lập Đạo xong rồi, giao lại cho Hội Thánh chưởng quản sắp đặt phổ thông. Bởi không tuân lời Thầy cấm, nên cơ bút tà mị mới lan tràn cám dỗ xúi giục, lập ra nhiều phái nhiều chi, đưa ra nhiều tôn chỉ xa Tôn Chỉ Đại Đạo . . .”
Vì các lẽ trên, Đức Giáo Tông dạy ngưng Cơ bút. Chỉ trọn hành theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân luật và Pháp Chánh Truyền (Chánh văn). Mọi việc Đạo, Hội Thánh chung trí luận bàn trong cuộc nhóm lệ hằng tháng, hằng niên và trong các cuộc nhóm bất thường.
2) NỘI BỘ: Người lo việc công cử thêm chức sắc, để có đủ người hành sự trong Bàn Cửu viện, trấn nhậm các Tỉnh Đạo, Quận Đạo, làm Đầu họ Đạo các Thánh Thất. Sau khi được Hội Thánh phê chuẩn ngày 8/4 Ất Hợi, bổn Nội luật Thánh Thất được ban hành để dạy cách tổ chức nội trị từng Họ Đạo. Ngoài ra, Người còn phái nhiều đoàn chức sắc đi khắp lục tỉnh, để trấn an tinh thần Đạo Hữu, khuyến khích sự tu hành, trau giồi tâm tánh cho được hiền lương hoà thuận Bác ái, Từ bi; nhơn dịp cũng nâng đỡ đức tin cho những kẻ lỡ lầm sa ngã hoặc thối bước vì cơn đại khảo vừa qua, và phổ độ thêm người vào Đạo. Đồng thời, các phái đoàn nầy còn có nhiệm vụ chỉnh đốn, chỉ vẽ cho các Thánh Thất biết cách làm việc đúng theo tinh thần của Chương trình Chỉnh Đạo.
3) NGOẠI GIAO: Đối với Chánh quyền, Người đích thân hoặc uỷ quyền cho đại diện đến để trình bày về đường lối thành thật tu hành của Ban Chỉnh Đạo. Nhờ đó nhà chức trách từng địa phương hiểu được sự Đạo đức chơn chánh của Ban Chỉnh Đạo, giảm được ít nhiều sự kiểm sát khó khăn đối với Đạo.
Về các chi phái, Người luôn luôn chủ trương sự hoà hiệp thống nhứt về căn gốc Chơn Truyền của Đại Đạo. Trong mọi sự giao thiệp, Người nêu gương cũng như hết lời căn dặn chức sắc ngoại giao của mình phải vẹn giữ một lòng từ bi Đạo đức; mặc dầu phải gặp những hoàn cảnh trái nghịch đến đâu đi nữa, cũng không được thiếu thái độ ôn hoà nhã nhặn của người tu.
Đối với chư chức sắc Hiệp Thiên Đài cũng như Cửu Trùng Đài, nếu vị nào tán thành ít nhiều Chương trình Chỉnh Đạo, Người cố tìm mọi cách để mời về chung lo hành sự.
4) GIÁO HOÁ: Cũng như khi còn ở Tây Ninh, Người rất chú trọng đến việc giáo hoá. Trong mọi Châu tri cũng như trong các bài diễn văn khai Hội, Người nhắc đi nhắc lại luôn luôn bổn phận của người tu trong giai đoạn chia rẽ khảo thí nầy. Là phải: giữ đức tin chắc chắn nơi Trời Phật Thánh Thần, nơi Đức Lý Giáo Tông, trọn niềm thương yêu hoà ái, vứt bỏ mọi giận ghét oán thù nghịch lẫn…Người cũng lập một trường Hạnh đường để dạy Đạo, mỗi khoá 7 ngày. Hằng đêm từ 8 đến 10 giờ, Người cho mời chung lên Bửu Điện để ôn bài và giảng giải thêm.
Một trường dạy chữ, lấy tên là Minh Thiện Học Đường, cũng được khai mở cho trẻ em Đồng nhi học.
5) PHƯỚC ĐIỀN: Cũng như trước kia, Người khuyến khích các Thánh Thất tạo lập phước điền, để tự túc cho Họ Đạo và để có phương tiện cho chư Đạo Hữu làm công quả. Riêng tại Thánh Thất An Hội, Người tổ chức nhiều sở Phước điền, diện tích chung được 18 mẫu. Trong những khi làm mùa, Người chống gậy già thân lội ra tận ruộng để chỉ bảo và khuyến khích công việc làm.
6) BAN HÀNH THIỆN: Đây là một điểm mới trong Chương trình Chỉnh Đạo, để thi thố lòng từ bi bác ái, siết chặt tình đoàn kết giữa bổn Đạo trong mọi dịp: quan hôn tang tế, cứu cấp tai nàn. Các Ban Hành Thiện được phát triển mau lẹ ở các Họ Đạo, và đóng góp một phần lớn tinh thần để xây dựng lại nền Đạo trong thuở ấy. Đồng thời, tại Thánh Thất An Hội cũng như ở các Họ Đạo, Người dạy lập nghĩa địa và tạo xe thuyền Bát Nhã.
7) TẠO TÁC: Để có đủ chỗ cho bổn Đạo các nơi hội hiệp về dâng lễ Trời Phật, đầu năm 1935, Người cho khởi công tạo tác Thánh Thất An Hội lại cho được rộng rãi và chắc chắn hơn trước.
Ngoài ra, Người nghĩ phải có nhiều Nhà tu (Trung thừa và Thượng thừa) để cho chư Đạo Hữu, chức sắc nam nữ có chỗ nơi ở hiến thân làm công quả, học Đạo và tu hành. Cho nên, năm 1936 Người bắt đầu cho lập Nhà tu Thượng thừa Nam phái. Tiếp Người cho mở Nhà tu Trung thừa Nữ, cho nữ phái đến ở tu và học các môn: thêu, may, làm bánh mứt, dệt vải…
8) CÚNG KÍNH: Mọi sự cúng kính về Thiên Đạo, Người chỉ dạy Lễ viện sắp đặt cho chu đáo trang nghiêm về lễ nhạc cũng như Đồng nhi, cho đúng theo Nghi tiết, kinh kệ hồi mới khai Đạo.
Hằng năm vào rằm tháng 10 Âm lịch, đều có cúng Báo Ân Từ để kỷ niệm chư chức sắc tiền vãng.
Về khoa Nhơn Đạo, sau khi đã được Hội Thánh duyệt y quyển “Lễ Nghi Niêm Thức” được ban hành để chỉ cách hành lễ trong các trường hợp sanh lão, bịnh, tử.
Kết lại, sau hơn ba năm hành sự, Đức Giáo Tông đã phục hưng lại nền Đạo về nhiều phương diện: trấn an tinh thần, củng cố đức tin, gieo tư tưởng Đạo đức đúng đắn, nêu được gương lành tỏ rạng, gây lại sự tín nhiệm, tổ chức Hội thánh các Nhà tu, chỉnh đốn sự hành Đạo đúng theo Luật Pháp, phát triển cơ phổ độ.
II. LỄ THÀNH ĐẠO
Trong thời gian đại khảo tuyển Đạo vừa qua, Đức Giáo Tông đã có đủ gương hạnh Từ bi, Đạo đức. Người luôn luôn bền chặt đức tin nơi thiêng liêng, quên mình hy sinh hành Đạo. Do đó, với sự ủng hộ của Ơn Trên Thầy, các Đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần nhứt là Đức Lý Đại Tiên, Người đã hoàn thành sứ mạng chỉnh đốn nền Đạo được kết quả mỹ mãn.
Hội Thánh (Ban Chỉnh Đạo) đã đưa nền Đạo qua khỏi cơn đại khảo. Nay Đại Đạo đã lập thành, Hội Thánh (Ban Chỉnh Đạo) cũng được trở thành là: Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nắm trọn Chơn truyền, Tân Pháp, với đủ Gương, Luật, Pháp.
Gương được thể hiện nơi gương hạnh Đạo đức Từ bi, hy sinh tận tuỵ của Người.
Luật được thể hiện nơi mọi sự tổ chức và làm việc của Hội Thánh, các Họ Đạo, các Nhà tu, từ trên xuống dưới đều đúng theo luật Đạo, tức là thi hành đúng theo Pháp Chánh Truyền (chánh văn), Tân luật và Nội luật.
Pháp được thể hiện nơi Đức Giáo Tông, đã thọ truyền và thực hành Tân Pháp được kết quả từ năm 1928 đến nay.
Lễ Thành Đạo được cử hành vô cùng long trọng tại Thánh Thất An Hội, từ ngày 7 đến 15 tháng giêng năm Mậu dần (1938). Đại lễ có ý nghĩa chấm dứt nhiệm vụ Chỉnh Đạo và các chi phái cũng đã rồi phận sự.
Từ nay, chỉ có Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để hướng dẫn nhơn sanh tu hành, đúng theo Chân truyền và Tân Pháp Đức Chí Tôn.
III. SỰ HÀNH ĐẠO TỪ 1938 ĐẾN 1942
Sau lễ Thành Đạo, nền Đạo được thuận đà thạnh tiến. Phần Người thì phải dốc tất cả tâm chí sức lực vào sự hành Đạo.
Người chu đáo mọi việc lớn nhỏ, về nội bộ cũng như về ngoại giao. Người chỉ dạy cách hành sự cho chư Chức sắc, lo sắp đặt cho an bài các Nhà tu ty sở. Người không tỏ ra, nhưng chính là Người đã tích cực chuẩn bị xây dựng Hội Thánh, để có đủ khả năng đảm đương việc Đạo sau nầy, khi Người nhập Đại tịnh.
Người làmviệc không ngừng, quên mệt quên già, để mong hoàn thành mọi sự sắp đặt cho kịp thời. Trong Châu tri chúc xuân số 395 ngày 24/1/1940, Đức Giáo Tông đã cạn tỏ nỗi lòng rằng: “…những mảng gắng lo việc cả của Đạo nhứt là việc kiến trúc các cơ quan cho kịp thì Thiên ý định, mà Tệ Huynh quên mệt quên già. Hôm nay Đạo đã đến tuổi 15, được có huệ quang chánh kiến; còn Tệ huynh cũng tới lục tuần nhĩ thuận rồi, mong gấp thấy sự qui nhứt tán thành…”. Đặc biệt, sự hành Đạo của Đức Giáo Tông từ 1938 đến 1942 có những điểm sau đây:
1. Phép Đại Xá, Giải Khổ: Sau ngày lễ Thành Đạo, suốt năm 1938, Đức Giáo Tông đi viếng các Thánh Thất, và làm phép Đại Xá, Giải Khổ cho từng nơi. Nhờ đó đức tin và tinh thần Đạo đức nói chung đều được tăng cao trổi bước. Từ trước đến nay chỉ mới có Người là được thọ mạng đầu tiên để ban hai phép nầy cho toàn Đạo.
Đức Giáo Tông giải thích về hai phép Đại Xá và Giải Khổ rằng: Mỗi người đều mang nặng nhiều nghiệp chướng tội tình, nên khó dứt mà tu được. Ai được hưởng phép Đại Xá rồi, thì các nghiệp cũ đã dứt. Có thể tu hành đắc Đạo được. Đó là mầu nhiệm của phép Đại Xá.
Ngoài các nghiệp cũ lỗi xưa, mỗi người còn vương mang lấy khổ trần, do lòng ham muốn dục vọng chiêu tập vào, khó mà giải thoát được. Phép Giải Khổ là phương hộ trợ điển lành của Ơn Trên, hầu giúp cho người có đủ đức tin sẽ được thọ hưởng, sẽ nương theo phép Giải Khổ ấy mà tự mình lần lần giải được các khổ trần. Đây là hai Phép bí tích nhiệm mầu của Tân Pháp Chí Tôn.
2. Sự phổ độ ra Trung Bắc: Trong hai năm 1938 – 1939, Người cho phái nhiều chức sắc ra phổ độ ở Trung Bắc. Ở Trung, mở được 25 Thánh Thất với số Đạo chung độ 5.000 người. Ở Bắc, tạo lập được Thánh Thất ở Hà Nội và Hải Phòng.
3. Tạo tác thêm các Nhà tu: Để có nơi cho bực Thượng Thừa nam nữ ở hiến thân làm công quả và tu tịnh, Người cho tạo tác Tịnh xá, khánh thành ngày 8/1 Canh thìn (1940), và mở cửa khai tịnh lần đầu vào ngày 8/4 năm nầy, do Người đích thân truyền dạy.
Năm 1941, Nhà tu Trung thừa Nữ được lịnh dời về khoảng đất rộng rãi hơn, như tới ngày nay (Trước kia tạm cất gần phòng trú Thánh Thất An Hội, nên rất chật hẹp).
Năm 1942, Nhà tu Thượng Thừa Nữ được khánh thành vào ngày 15/8 Nhâm Ngọ.
Nhà Thiên Lý Mật Truyền được tạo lập năm 1935, tạm trên nóc Thiên Phong Đường, để làm nơi cho Người hành Tân Pháp và cầu nguyện thông công cùng các Đấng thiêng liêng. Sau nhà Thiên Lý Mật Truyền được dời về tạo nơi tịnh xá, trong vườn Trước Hoa Kỳ Thọ (cuối năm 1939).
4. Lâm nạn: Do sự phạm phép của hai chức việc nơi Họ Đạo Hiệp Thạnh Tây Ninh, thêm vào có một sự vu cáo về Chánh trị, ngày 22/1/1941, Người bị Toà án xử phạt 18 tháng tù. Sau khi chống án, Người được Toà xét xử lại và đổi ra sáu tháng tù treo (8/4/1941).
Đối với vụ nầy, Đức Giáo Tông tỏ ra có đầy đủ Đức Tin và tràn trề lòng Từ Bi. Theo một đoạn trong Châu tri số 418 ngày 10/4/1941, Người viết như vầy: “Tệ Huynh không buồn cũng không phiền những người vu cáo ám hại. Tệ Huynh tin chắc chi chi cũng có Thầy biết cả. Nơi Toà trên mà không nhìn nhận được sự chắc thiệt, sự trung thành và sự vô tội của Tệ Huynh trong vụ nầy, cũng bởi có thiêng liêng để vậy. Mới tạo ra được một cái hàm oan cho Tệ Huynh phải chịu, hầu thử lòng các em trong buổi nầy, đặng lừa lọc người tâm thành bền vững có hạnh đức, xứng đáng đệ tử của Thầy, em của Tệ Huynh. Nói rõ là những em nào thiệt tu hành, thiệt tin Tệ Huynh, rõ biết Tệ Huynh phải chịu nạn, để gánh bớt tội lỗi cho các em mà tỏ lòng thêm mến thương khắn khít, thì em ấy sẽ được vững chắc mà đi trên con đường Đạo đức đến nơi kết quả. Trái lại, những em nào không dốc chí tu hành, không đủ đức tin nơi Thầy, nơi Đạo, và nơi Tệ Huynh, mới thấy khó nản lòng trở bước, đã lơ đãng Đạo Thầy, thì phải mắc kế


=====

IV. SỰ HÀNH PHÁP
Nhắc lại trước kia, khi còn làm quan ở Hòn chông (1923), Người đã có thọ giáo Đạo Minh Sư và học phép tu tịnh. Sau khi gặp Đạo Cao Đài, năm 1928, Người được Đức Chí Tôn và Cửu Vị Tiên Nương giáng cơ chỉ dạy về Tân Pháp, do Đức Cao Thượng Phẩm phò loan.
Từ ấy, nhứt là từ ngày về hành Đạo nơi Toà Thánh Tây Ninh (1931) đến sau, Người vẫn hành Pháp hằng ngày Tứ thời công phu. Người theo đúng phương châm tích cực và tiêu cực hoá hợp của Tam Kỳ Phổ Độ, vừa làm công quả vừa tịnh luyện.
Ngoài ra, theo tập Nhựt ký riêng của Người về sự hành Pháp, xin lược chép ra những kỳ Đại tịnh như dưới đây:
1. Từ 18 đến 21 tháng 5 – Giáp Tuất (1934) Người nhập Đại tịnh tuyệt thực.
2. Từ 1/12 Giáp Tuất đến 3/1 Ất Hợi (1935), Người nhập Đại tịnh; 3 ngày chót cũng không ăn, chỉ để tâm cầu phước cho nhơn sanh nhơn dịp đầu năm mới.
3. Vâng lịnh Đại Từ Phụ và Đức Lý Đại Tiên, kể từ ngày 7/7 Ất Hợi (5/8/1935), Người Đại tịnh 120 ngày nơi nhà Thiên Lý Mật Truyền cũ trên nóc Thiên Phong Đường. Kỳ nầy 7 ngày sau cùng, Người tuyệt thực, mỗi ngày chỉ uống vài hớp nước.
4. Đến ngày 24/4 Bính Tý (16/5/1936), Người nhập Đại tịnh một kỳ nữa nơi Thiên Lý Mật Truyền cũ.
Lần nầy Người bớt ăn cơm rất nhiều, chỉ còn dùng trái cây, uống nước dừa, sữa đậu nành và ăn cháo chút ít.
5. Đến ngày 1/6 Đinh Sửu (8/7/37), Người nhập Đại tịnh nơi Hiệp Thiên Đài. Dưới đây là bản nhựt ký hành Pháp do chính Người ghi chép lại:
1/6 Đinh Sửu: Thượng sớ.
2/6 Đinh Sửu: Ăn ít trái cây, một bữa cháo.
3/6 Đinh Sửu: (như trên)
4/6 Đinh Sửu: Ăn hai trái xoài
5,6,7,8/ 6 ĐS: (như trên)
9,10 6 Đinh Sửu: Ăn năm trái táo khô.
11/6 Đinh Sửu: (như trên)
12,13,14/6 ĐS: Ăn 10 trái táo.
15/6 Đinh Sửu: Uống nước dừa.
16/6 Đinh Sửu: Uống hai ly sữa đậu nành.
17 đến 23/6 ĐS: Tu khá lên, uống hai ly sữa
24 đến 30/6 ĐS: Tu khá lên, thôi uống sữa, uống hai ly nước dừa trong 6 ngày thiệt nhẹ, học nhiều hay lạ.
1,2/7 ĐS: (như trên)
3/7 ĐS: Bà bạn mất.
4/7 ĐS: Vì đám tang phóng tâm, phải uống sữa đậu nành lại mới chịu nổi.
9/7 ĐS: Hết phóng tâm, ngồi được 10 giờ.
10/7 ĐS: Tẩu, khử trược.
11,12/7 ĐS: Tu khá luôn.
16,17/7 ĐS: Không uống sữa, có ân điển mát mẻ khởi sự lên hai bắp vế.
18/7 ĐS: Uống sữa lại, khởi sự lên thượng tiêu.
19/7 ĐS: 3 giờ khuya có cho biết phải tu thêm nữa.
20/7 ĐS: Khởi sự nhớ lại các việc từ nhỏ tới lớn.
29, 30/7 ĐS : Không ăn uống.
1/8 ĐS: Không ăn, không uống, không nằm, không ngũ, cho tới xuất hồn.
2/8 ĐS: Có Đức Lý đến khai khiếu định ngày xuất thần về chầu Thầy.
4/8 ĐS: Bị động: hai con sợ chết, dộng cửa, phải viết giấy cho biết.
5/8 ĐS: Vì phóng tâm, tiếp điển bị đứt đoạn.
6/8 ĐS: Phải uống sữa đậu nành, vì quá yếu sức gần liệt.
7/8 ĐS: Ăn cháo, trái cây cho khoẻ lại.
8/8 ĐS: Ăn cháo.
9/ 8 ĐS: Tẩu, ăn cháo, điển thường.
11, 13/8 ĐS: Không ăn, uống, giờ chót có điển xả cho nghỉ.
14/8 ĐS: Ra thiền định.
(Chử “tẩu”, có nghĩa là: Vận hành Đạo pháp. Chữ “thượng tiêu” có nghĩa là: lên nê hườn cung).
6. Từ ngày 1 đến 27/1 Kỷ Mão (1939), Người nhập Đại tịnh, với kết quả là:
Ngày 1, 2, 3/1 KM: Nhịn ăn 3 ngày Đại tịnh, thêm sáng, trực tiếp thêm dễ.
16/1 KM: Tu chạy khá lắm.
22/1 KM: Khởi sự ăn lại một bữa cơm.
7. Từ ngày 15 đến 21/ 5 Kỷ mão, Người nhập Đại tịnh:
15/5 KM: Nhập tịnh không ăn.
19/5 KM: Ngồi luôn suốt ngày đêm.
21/5 KM: Ra tịnh, rõ biết thêm việc Đạo.
8. Từ ngày 25/12 Kỷ mão đến 27/3 Canh Thìn (1940), Người nhập Đại tịnh. Có những ngày ngồi luôn từ thời Tý đến thời Dậu (theo nhựt ký).
9. Từ ngày 16/10 Canh thìn đến 22/11 Canh thìn, Người nhập Đại tịnh, mỗi ngày dùng một bữa; có những ngày Đại tịnh trọn, không ăn.
10. Từ ngày 15/11 đến 26/12 Tân Tỵ (đầu năm1942), Người nhập Đại tịnh, theo nhựt ký:
15/11 TT: Nhập Thiền định, ăn uống như thường trong tuần đầu.
22/11 TT: Ăn một bữa cơm trưa , hai bữa ăn trái cây.
27/11 TT: Tu thêm lên một bực nữa, thượng sớ nhập Đại tịnh.
12/12 TT: Đại tịnh ngồi được khá mà còn phóng tâm.
15/12 TT: Đại tịnh không ăn uống.
16/12 TT: Đại tịnh.
17/12 TT: Đại tịnh.
19 12 TT: Ăn một bữa cơm, một bữa cháo.
22/12 TT: Ra tịnh.
Trên đây là những thời kỳ Đại tịnh ngắn của Đức Giáo Tông trước khi nhập Đại tịnh lâu dài.
Người đã đoạt tơi kết quả là xuất được Chơn thần và tiếp Tiên Thiên điển. Nhờ tiếp thọ Tiên Thiên điển ấy, Người đã giải lành nhiều chứng bịnh nan y. Năm 1939, chính vị Tỉnh trưởng Bến Tre người Pháp là ông THIERRY đã được thọ phép truyền điển giải bịnh hết đau chân (đau khớp xương nan trị), nên ông nầy rất tin tưởng.
V. TIỂU KẾT VỀ ĐOẠN ĐỜI TÍCH CỰC HÀNH ĐẠO NƠI BẾN TRE
Trong đoạn đời tích cực hành đạo nầy, Đức Giáo Tông hoàn thành tốt đẹp phần Thánh Đạo, và tiến hành có kết quả phần Tiên Đạo.
Sau bốn năm chịu khảo thí ở Toà Thánh Tây Ninh, Người về Bến Tre chấn chỉnh nền Đạo được thành với đủ Gương, Luật, Pháp. Người “phải gầy dựng lại một nền Chánh Giáo đã bị xô đè vừa danh dự vừa tín ngưỡng” đúng như lời Thánh Giáo ngày 14/1/1934. Công đức của Người là khéo lèo lái con thuyền Đạo lướt qua khỏi mọi giông tố bão bùng. Người còn lo tu bổ, sửa sang những chỗ bị hư hoại, cho được chắc chắn trở lại y như hồi còn mới, để đủ sức cứu độ quần sanh, đưa rước khách trần về Đấng Cha lành.
Về phần giải thoát, Người đã tuần tự hành Tân Pháp đoạt tới chỗ xuất Chơn Thần.
Cơ Chỉnh Đạo do Người hướng dẫn chẳng phải là một chi phái của Đạo Cao Đài. Mà đó là căn bổn bảo thủ Chơn Truyền và Tân Pháp Chí Tôn. Chỉnh Đạo chỉ là phận sự trong một giai đoạn ngắn để chấn hưng nền Đạo mà thôi. Chấn hưng rồi là hết nhiệm vụ và danh nghĩa Chỉnh Đạo. Chỉ còn là Hội Thánh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, với nhiệm vụ lo phổ hoá chúng sanh, và qui hiệp tất cả về một mối theo Luật Pháp Chơn Truyền.
Đức Giáo Tông đã thành công mỹ mãn trong giai đoạn Thánh Đạo và Tiên Đạo nầy, nhờ có đủ gương hạnh nhẫn nhịn từ bi, thể hiện được đức háo sanh vô tận của Đại Từ Phụ. Người đã nêu rõ lên con đường tu hành và giải thoát cho nhơn sanh trong buổi Hạ nguơn tự diệt nầy.
Người rất xứng đáng với lời dạy của Đức Chí Tôn trong bài Thánh thi dưới đây:
“Con trị ai Thầy cũng trị ai,
Một lòng Đạo Đức chớ đơn sai,
Năm năm công quả tua bền chí,
Dìu dẫn nhơn sanh bước lạc loài”.

=====

PHẦN THỨ NĂM

Buổi nhập diệt và tang lễ của Đức Giáo Tông

I. SẮP ĐẶT NGÀY RA TỊNH
Trong khoản từ nửa năm sau năm Canh Dần (1950) tới đầu năm Tân Mão (1951), Đức Giáo Tông cho đòi hầu hết chức sắc nam nữ nơi Hội Thánh lên Thiên Lý Mật Truyền để dạy việc. Người tiếp chư chức sắc làm nhiều kỳ. Đại để Người ân cần dạy khuyên các điều sau đây: Mỗi chức sắc phải ráng lo làm tròn phận sự của mình, và tu sửa thêm hơn cho được đầy đủ gương hạnh Đạo Đức.
Vào cuối năm Canh Dần, Người xuống lịnh cho Hội Thánh phải sắp đặt mọi việc chu đáo để Người ra tịnh. Người dạy:
· Lập hồ sơ chức sắc cho đầy đủ
· In kinh sách Đạo cho đủ dùng
· Xây mộ cho tất cả các chức sắc quá cố
· Xây hồ nước
· Mua vải trắng để dành
· Dự bị một số tiền chừng bốn, năm chục ngàn
Riêng trong gia đình, Người dạy phải sửa sang lại hết thảy mồ mả của ông bà thân thuộc.
Người bảo rằng: Tệ Huynh phải lo những việc nhỏ nhặt ấy trước, để khi ‘Ra tịnh’, mắc lo việc lớn của Đạo, rồi không có thì giờ lo các việc ấy được nữa.
Và Người cho biết thêm rằng: kể từ tháng Năm năm Tân Mão (1951), Tệ Huynh sẽ được lịnh Ơn Trên cho ra tịnh. Ngày Tệ Huynh ‘Ra tịnh’, là ngày ngoài đời khổ lắm. Các em trông mong anh ‘Ra tịnh’, nhưng chừng đó các em sẽ khóc. . .
Các em có tin lời nói của anh chăng ?. Toàn thể chức sắc đáp rằng: Tin.
Tin ấy được loan truyền ra. Toàn Đạo đều tin tưởng và đinh ninh: một ngày nào trong tháng Năm tới đây, Đức Giáo Tông sẽ ra tịnh với tất cả huyền năng chuyển thế độ đời. . .
II. BUỔI NHẬP DIỆT
Sau khi chỉ dạy sắp đặt về mọi công cuộc ra tịnh, Đức Giáo Tông tịnh luôn ngày đêm ít khi xả nghỉ.
Ngày mùng 5 tháng 5 Tân Mão (8/6/1951), Người dạy hai em Thanh đồng rằng: Anh sẽ về chầu Đại Từ Phụ 7 ngày; hai em ráng giữ gìn cho thanh tịnh. Khi thấy dứt thở quá 7 ngày mà anh chưa về, thì hai em sẽ cho Hội Thánh hay. Thế rồi ngày 8/5 Tân Mão, Người ngồi tịnh luôn ngày đêm.
Đến ngày 13/5 Tân Mão, Người dứt uống.
Đến thời Tý đêm 14 rạng 15/5 Tân Mão (17 rạng 18/6/1951), Người dứt thở.
Qua ngày 16/5 Tân Mão, hai em Thanh đồng thấy Người dứt thở đã lâu, nên đỡ Người nằm xuống đơn. Ngày 18/5 Tân Mão, vì rờ thấy tay chân Người đều lạnh và vì sợ, nên hai em Thanh đồng xuống cho Hội Thánh hay, mặc dầu chỉ có 4 ngày.
Ngày 19/5 Tân Mão (22/6/1951), Hội Thánh mời ba vị Bác sĩ đến xem (một Bác sĩ Chánh phủ và hai Bác sĩ tư). Sau một hồi khám nghiệm thật kỷ, các Bác sĩ rốt cuộc tuyên bố rằng: Xác của Đức Giáo Tông đã chết từ hai ngày trước. Nhưng vì tinh thần mạnh nên còn dịu chưa hư, chớ quyết sự sống không còn có thể trở lại với xác ấy được nữa.
Mặc dầu Bác sĩ đã tuyên bố như trên, nhưng Hội Thánh cũng để vậy chờ đợi thêm 24 tiếng đồng hồ. Đến thời Tý ngày 21/5 Tân Mão (24/6/1951), mới khởi sự đưa xác Người vào Liên Đài (tức là bước sang ngày thứ 7, Đức Giáo Tông đi không trở lại).
Tính từ ngày Đức Giáo Tông nhập Đại tịnh, giờ Tý đêm 21 rạng 22 tháng 2 Nhâm Ngũ (1942) đến khi xuất Thần và Người dứt hơi thở, nhằm giờ Tý đêm 14 rạng 15/5 Tân Mão (17 rạng 18/6/1951), là đúng 9 năm 81 ngày. Theo Đạo Pháp tu luyện, gọi là Cửu Niên Diện Bích, và thêm 9 cửu lẻ là Cửu Cửu Thần Du. Chín năm nuôi dưỡng chơn thần, 81 ngày thần du thiên ngoại.
Những điểm đáng chú trọng về buổi nhập diệt của Người là:
1. Dự liệu việc vào đường tịch diệt ngoài 5 tháng, mà chỉ dùng danh từ “Ra tịnh” một cách quả quyết, chớ không tiết lộ việc xuất thần về chầu Thầy cho một ai biết cả.
Đến như câu dặn hai em Thanh đồng: Nếu quá 7 ngày, anh không về thì sẽ cho Hội Thánh hay; lời dặn ấy như có nghĩa là: đi ra rồi có thể trở về; nhưng cũng có thể hiểu rằng: Đi không trở lại, mà vì sợ bận lòng nên phải chờ quá 7 ngày sẽ cho hay.
Rõ ràng ngày tịch diệt, Người đã được Ơn Trên chỉ dạy, như lời Người đã tỏ: “Anh được lịnh Ơn Trên cho phép tháng 5 Ra tịnh…”
2. Về thân xác, Người đã dứt thở hai ngày, rồi hai em Thanh đồng mới đỡ nằm xuống một cách dịu dàng. Đến ngày thứ năm, khi Bác sĩ đến khám, cũng vẫn còn dịu dàng như người ngủ. Vì không giống xác chết thường, nên Bác sĩ mới tuyên bố: “Xác nầy đã chết từ hai ngày rồi…và sự sống không thể trở lại được nữa”.
Đến cuối ngày thứ sáu sang ngày thứ bảy, mặc dầu xác đã đổi sắc, nhưng vẫn không có mùi hôi. Khi liệm vào Liên Đài, đỡ Người ngồi dậy dễ dàng, như xác vừa tắt thở vài tiếng đồng hồ. Khi liệm, dưới lầu Thiên Lý Mật Truyền có trên hai trăm vị, nhưng không ai nghe biết mùi chi cả.
Căn cứ theo lịch sử Tôn giáo, chỉ các nhà tu hành chứng quả thành Đạo mới có được thân xác như vậy vào buổi nhập diệt. Đó là một bằng cớ chứng minh rằng: Đức Giáo Tông đắc Đạo tại thế gian; Người đạt thành Tân Pháp Chân Truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ rồi vậy.
III. LỄ AN TÁNG
Ngày 21/5 Tân Mão (25/6/1951) vào 3 giờ chiều, tang lễ bắt đầu. Tại Hội Thánh, các Thánh Thất và tư gia Đạo Hữu đều treo cờ tang. Nơi mỗi Thánh Thất đều có vọng bàn linh cho bổn Đạo đến làm lễ.
Vào 4 giờ chiều, ngoài 1.000 người đưa Liên Đài từ Tịnh xá về Hội Thánh, nhập Bửu Điện rồi an vị nơi ngôi Giáo Tông.
Tiếp Hội Thánh đọc bản Tuyên cáo số 1 về tang lễ như dưới đây:
TUYÊN CÁO
“Hội Thánh xin có lời tuyên cáo cho toàn thể Đạo Hữu được hay biết tận tường, về tin của Đức Giáo Tông chúng ta tịch diệt.
Hội Thánh tưởng chư Hiền Hữu, ai ai cũng tin tưởng rằng Đức Giáo Tông sẽ còn lưu lại với chúng ta, trong Thiên vụ cầm đuốc dìu đàng cho nhơn loại đến ngày thế cuộc thăng bình, vì chính nguyện vọng của Ngài, lập trường của Ngài đã cho phép chúng ta tin tưởng như thế.
Nhưng thử ngoảnh lại cổ lại, các Đấng Giáo Chủ Tam Giáo, nào các Ngài có giữ mãi thân xác để mà dìu dẫn bao nhiêu môn đồ đến mấy chục thế kỷ đâu !. Thế mà các nền Tôn giáo lớn nhứt trong năm Châu vẫn tồn tại mãi nơi lòng tin tưởng của bao nhiêu vạn triệu tín đồ. Đó là lẽ dĩ nhiên vì chỉ có tinh thần siêu việt, giáo lý cao thâm của các Ngài nó mới đem lại cho nhơn sanh nhiều cứu rỗi, nhiều an ủi, nhiều vẻ vang sáng lạng cho cuộc đời, nên đời mới hinh hương sùng tín. Chớ xác thân của các Ngài, người đời nào có dùng làm lợi ích chi cho cõi sống. Nên chắc chắn là trong đời không ai còn hoài tiếc thân xác của các Ngài, sao ngày nay không còn tồn tại.
Vậy với Đức Giáo Tông của chúng ta, quả thật Ngài không có độ rỗi chúng ta bằng thuật pháp, bằng trường sanh bất tử. Ngài chỉ cảm lòng chúng ta bằng đức cả, bằng bao nhiêu giáo lý chân chính sáng suốt. Nó đã kết tập thành một lập trường sống, cho chúng ta sống trong khuôn khổ xã hội Đại đồng. Chính Ngài đã vạch sẵn cho chúng ta con đường thuận đà tiến hoá, con đường giải thoát tất cả những nghiệp chướng của đời mạt pháp trong thế kỷ 20 nầy. Ngày nay, chúng tôi tưởng với cái xác thân đã 70 của Ngài, nó khó lòng mà phụng sự cho tinh thần Ngài, với sự hy sinh tận tụy cho cõi đời nầy nữa. Biết thế, nhưng với lòng thương nhơn loại, Ngài đã tự đem mình hãm vào vòng Đại tịnh từ ngoài Chín năm nay, để điều dưỡng xác thân, để gội rữa tinh thần, để đủ huyền năng mà nắm vững tay lái con thuyền Đạo, đang chở hằng triệu nhơn sanh trong cơn bão tố của cuộc đời…
Chư Hiền Hữu,
Kể từ giờ phút nầy, chúng ta hẳn phải sống hoàn toàn với lòng tin tưởng mới. Chúng ta phải gội rửa cho sạch những ý nghĩ cho rằng lúc nào bên chúng ta, cũng có người Anh Cả để nâng đỡ dắt dìu. Chúng ta phải tin tưởng rằng: Đức Giáo Tông, người Anh Cả duy nhứt của chúng ta, hiện thời đã sống trong cõi Thiên, và tinh thần Ngài sống vĩnh cửu nơi lòng chúng ta.
Từ đây, trên đường Đạo bơ vơ, Ngài đã cho chúng ta một tinh thần đoàn kết chặt chẽ. Và chúng ta phải có bổn phận phụng sự Ngài bằng cách làm sống thêm nền Đạo cả, tức là làm sáng lạng danh Đạo của Ngài.
Chúng ta phải nén tình thương yêu nhỏ hẹp, ra làm lòng trung tín tuyệt vời; chúng ta trung thành với chí hướng của Ngài, với muôn ngàn lời giáo hoá châu ngọc của Ngài. Tinh thần Ngài sống mạnh trong mỗi cõi lòng chúng ta. Chúng ta phải noi theo gương Ngài, lấy hơi thở cuối cùng làm giới hạn cho cuộc đời hành Đạo.
Từ ngày nay, chúng ta phải bài trừ tất cả những do dự mơ hồ, để lòng tin tưởng được tự do, hầu đón tiếp tinh thần Ngài với muôn ngàn sáng lạng. Không có một lễ vật nào long trọng hơn đối với Ngài, mà chỉ có lòng tin tưởng, đức hy sinh của chúng ta sẽ mở rộng đường Đạo do Ngài dẫn dắt, ngày càng thêm rộng lớn. Chúng ta thương yêu tin cậy nhau hơn, hợp thành một khối, như thế là chúng ta đã hiến cho Ngài một lễ vô cùng long trọng đó.
Vậy đây là lễ đưa Ngài về cùng Thầy tức là đưa tinh thần sự nghiệp Đạo đức của Ngài vào lòng mỗi người, để làm phương cứu rỗi khỏi vòng nghiệp chướng, trong hiểm họa của thế cuộc ngày nay.
Thay mặt Hội Thánh, chúng tôi xin có mấy lời tuyên cáo cùng chư Hiền Hữu”.
THAY MẶT HỘI THÁNH
Kể từ ngày 24/5 Tân Mão, Liên đài của Đức Giáo Tông để ngự tại Cửu Trùng Thiên nơi sân Đại Đồng Xã, để chứng các cuộc tế lễ. Cuộc lễ kéo dài đến ngày 4/6 Tân Mão (7/7/1951). Có cả thảy 136 tế lễ của Đại diện Chánh quyền, Quan khách, các Tôn giáo, các chi phái Đạo, và các Họ Đạo.
Lúc ấy là thời kỳ chiến tranh hết sức nghiêm trọng. Sự đi lại thật là khó khăn nguy hiểm. Thế mà toàn Đạo các nơi về dự lễ trên 10.000 người, có cả từ Trung, Bắc Việt. Hằng ngày luôn luôn hiện diện ngoài 3.000 người. Nhân viên Ban Tổ chức cuộc lễ tính chung nam nữ ngoài 2.000 vị. Tất cả đều tận tâm lo tròn phận sự, trong những điều kiện hết sức cấp bách và khó khăn.
Ngày 2/6 Tân Mão, Hội Thánh tiếp bản Tuyên cáo số 2 với ba đề mục đại cương như dưới đây:
Vạch rõ con đường hướng Đạo của Đức Giáo Tông
Thuật rõ giai đoạn nhập diệt của Người
Định rõ đường lối tục sự hành Đạo của Hội Thánh ở ngày nay và mai sau
Ngày an táng, Liên Đài của Người được đặt trên Linh Xa bông hình Long Mã Phụng Đồ toàn bằng hoa huệ. Dự lễ nầy bổn Đạo trên 10 ngàn, du hành khắp Thánh Địa và Châu thành Bến Tre.
Liên Đài Người được đặt trên nền Bửu Tháp trước Hiệp Thiên Đài Thánh Thất An Hội.
Suốt tang lễ, có rất nhiều bài ai chúc xưng tụng công đức Người, của Hội Thánh Lưỡng Đài, các Nhà Tu ty sở, các Họ Đạo, các Đại diện chi phái. Đặc biệt, xin chép ra dưới đây bài Ai chúc của Quan Tỉnh Trưởng Bến Tre. Nhơn danh Chánh phủ Quốc gia Việt Nam, Đại diện Thủ hiến Nam Việt, thay mặt cho Chánh quyền Địa phương, Ngài bày tỏ những lời phân ưu như dưới đây:
“Thưa quý Bà,
Thưa quý Ngài.
Tin Đức Giáo Tông tịch diệt vừa được loan báo, Ngài Thủ Hiến Nam Việt nhờ tôi thay mặt Ngài và Đại diện Chánh phủ, đến phân ưu cùng tang quyến và các bổn Đạo; và để kính cẩn nghiêng mình trước vong linh của Đức Giáo Tông, cầu chúc Ngài được phối hiệp cùng Đức Thượng Đế. Nhơn danh công chức và Thân hào tỉnh Bến Tre, tôi cũng xin góp lời cầu nguyện cho Ngài được siêu thăng Tịnh độ.
Đức Giáo Tông đã rời bỏ tất cả vinh hoa phú quí để tìm Chân lý mà dẫn dắt hàng triệu tín đồ trên đường Đạo đức.
Thật vậy, mặc dầu bước công danh của Ngài đang hồi rực rỡ: Ngài làm Quan đến chức Tri phủ, và đã từng giữ ghế Quận trưởng ở nhiều nơi như Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc. Ngài không ngại ngùng xa lánh Quan trường để lo đường trước tự giác sau giác tha, để tế độ chúng sanh, nêu cao đuốc tuệ, dìu lòng người đến chốn Từ bi, Bác ái.
Ngài bước vào đường chơn tu vào năm 1926. Đến năm 1931, Ngài được dời về Toà Thánh để lãnh trọng trách cầm giềng mối Đạo. Sau một thời gian, Ngài trở về nơi chôn nhau cắt rún để lập Ban Chỉnh Đạo (Đức Giáo Tông sinh ngày 22/6/1881 tại làng An Hội, Tỉnh Bến Tre). Ngài được nhơn sanh tôn lên chức Giáo Tông và làm lễ Đăng Điện năm 1935.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và gương từ bi của ngài, số tín đồ càng ngày càng đông và hiệp nhau thành tâm tu niệm.
Bắt đầu từ năm 1942, Ngài Đại tịnh; đến ngày 21 dương lịch vừa qua, Ngài Tịch Diệt, giữa bao nỗi đớn đau của các Tín đồ.
Tôi có thể nói hơn nữa; tin Đức Giáo Tông Tiên du chẳng những làm cho Thiện nam Tín nữ xao xuyến mà thôi; lại còn gây nên bao niềm luyến tiếc của phần đông dân chúng và của Chánh Phủ Quốc Gia Việt Nam .
Than ôi !, Một bậc Đại đức chơn tu đã từ giã cõi đời, về nơi tịnh độ, sau bao năm xa lánh mùi tục lụy lợi danh, treo lại cho thế gian một tấm gương trong, soi rõ con đường tự giác, “Tâm hồn hơn vật chất”.
Trong giờ phút thiêng liêng nầy, chúng tôi ngậm ngùi bái biệt Ngài. Xin Ngài chứng minh tấm lòng thành kính của chúng tôi”.
QUAN TỈNH TRƯỞNG BẾN TRE
Nhơn danh Chánh Phủ Quốc Gia Việt Nam
và Đại diện Thủ hiến Nam Việt
Sự đau đớn mến tiếc của toàn Đạo đối với buổi nhập diệt của Đức Giáo Tông, thật là vô cùng tận, không sao tả xiết.
Dưới đây xin chép lại Lời Từ giã của Hội Thánh đọc trước nền Bửu Tháp Đức Giáo Tông (4/6 Tân Mão), để thấy được một phần nào tâm trạng não ruột, thảm thiết chung của toàn Đạo khi ấy:
“Bạch Đức Giáo Tông,
Cả một biển người nheo nhóc, đây là tất cả em út thân yêu của Ngài, đau khổ lòng từ giã vĩnh biệt Ngài nơi nền Bửu Tháp, nơi yên nghỉ nghìn thu của Ngài.
Bạch Đức Giáo Tông,
Chúng em đau đớn biết ngần nào, trước cảnh rắn không đầu, gà mất mẹ của chúng em từ đây.
Ôi !, Còn thảm trạng nào khe khắt cay nghiệt cho bằng cái thảm trạng mà chúng em phải đưa Ngài, người Anh Cả yêu quý duy nhứt của đời hành Đạo chúng em, về cõi Vĩnh sanh trong thế giới vô hình, mà chúng em phải ở lại với tình cảnh bơ vơ ngơ ngác, trước muôn ngàn hầm hố may rủi của bao nhiêu hăm dọa thử thách lúc nào cũng sẵn chực bên mình chúng em !
Bạch Đức Giáo Tông,
Ngày chúng em đưa Ngài về cõi Thiên, đáng lẽ chúng em vui mừng xiết bao. Nhưng thử tưởng tượng chúng em vui mừng làm sao được; sự vắng mặt của Ngài là tất cả một sự lạnh lùng, một sự đau đớn vô biên, mà chúng em tan tác với vết thương lòng vĩ đại nầy.
Bạch Ngài,
Ở đây, chúng em được nhìn Liên Đài Ngài một lần chót, và kính lễ Ngài, gọi thay cho tất cả tấm lòng thành của chúng em đã có đối với Ngài, trong giờ phút quyết định nầy.
Ôi !, hết, hết tất cả rồi. Muôn sự trần gian, suốt đời cõi sống đã về với sự chấm dứt quyết liệt rồi…
Nhìn qua màn lệ, với sự thổn thức của mỗi tấm lòng, chúng em kính lạy đưa Ngài với lòng tin tưởng, dạ trung thành quyết sống với sức sống sáng lạng của Ngài đượm tràn trong lòng của chúng em…
Phút trang nghiêm, phút Thiêng Liêng, chúng em vĩnh biệt Ngài. Xin Ngài chứng cho lòng thành của chúng em từ đây.”
THAY MẶT HỘI THÁNH
Chức sắc Lưỡng Đài, Đại diện Toàn Đạo

PHẦN THỨ SÁU
Kết luận chung
Tiểu sử của Đức Giáo Tông là một gương mẫu về sự thực hiện đủ Ngũ Chi Đại Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ nầy. Người đã hành vẹn toàn:
Cơ tùng khổ của Nhơn Đạo
Cơ thắng khổ của Thần Đạo
Cơ thọ khổ của Thánh Đạo
Cơ thoát khổ của Tiên Đạo
Cơ giải khổ của Phật Đạo
Tức là hoàn thành Cơ Tuyệt khổ của Đại Đạo Tam Kỳ.
Về phần thiêng liêng, Người được thọ phong Tiên vị: Đại ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ LÝ GIÁO TÔNG TỪ BI CỨU THẾ THIÊN TÔN.
Về phần nhơn sanh, Người được tri ân và thờ kính vào phẩm: GIÁO CHỦ NHƠN ĐẠO trong hàng Ngũ Chi Giáo Chủ. Vì Đức Giáo Tông là người đầu tiên đã tu hành đắc quả theo Chân Truyền Tân Pháp Chí Tôn, nêu gương sáng tỏ cho nhơn sanh noi theo. Và chính Người là vị thay thân cho Đại Từ Phụ cầm giềng mối Đạo tại thế, để cứu độ nhơn sanh trong buổi Hạ ngươn tận diệt nầy.
Xuyên qua tiểu sử của Người, toàn Đạo kính phục

Người đã thi thố nhiều tư đức cao quí về phần đời như: Hiếu thảo, Nhơn nghĩa, Thanh liêm, chuyên cần, thương dân mến nước.
Đặc biệt về phần Đạo, Đức Giáo Tông đã nêu lên một ĐƯỜNG LỐI HÀNH ĐẠO chơn chánh (Hội Thánh đã có phổ biến một bài Thuyết Đạo đầy đủ về Đường Lối Hành Đạo của Người rồi).
Đây chỉ đại lược năm đặc điểm trong Đường Lối ấy, tức là năm điều kiện nhứt định phải có, đã đưa Người tới chỗ thành công. Và chúng ta nếu muốn được kết quả như Người, cũng phải tuân hành theo đó, chớ không có một đường lối thứ hai nào khác.
Năm đặc điểm trong Đường Lối Hành Đạo của Đức Giáo Tông như sau
1. Phải có Đức tin đầy đủ, sắt đá nơi Trời, nơi Đạo nơi chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, nơi Đức Lý Giáo Tông, đều có sứ mạng dìu dắt chúng ta trên bước đường tu. Chính nhờ có Đức tin vững chắc ấy, mà Đức Giáo Tông mới đủ tinh thần chịu đựng và lướt qua mọi cơn khó khăn khảo đảo.
2. Phải có một tinh thần vị nhơn sanh, hy sinh tư kỷ xả thân hành Đạo. Chúng ta thấy rõ: Đức Giáo Tông hành Đạo chẳng phải để riêng cho mình hưởng, mà vì nhơn sanh, vì thương đời và muốn cứu độ đời. Nhờ có tấm lòng vị tha cao cả ấy, Người sẵn sàng hy sinh mọi tư kỷ để mưu cầu hạnh phúc chung cho nhơn loại.
3. Phải có lòng thương yêu tràn trề từ người đến vật. Đây là đặc điểm sáng tỏ nhứt của Người. Và đây cũng là điều kiện chánh yếu đã giúp người được thành công.
“Sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới”, “Sự thương yêu là chìa khoá mở cửa Bạch Ngọc Kinh”. Đức Giáo Tông đã thể hiện được trọn vẹn đức háo sanh vô tận của Đại Từ Phụ.
4. Phải thuần tuý Đạo đức tu hành, chẳng nên xu hướng về mọi sự hoạt động chánh trị đảng phái. Nhờ có quan niệm đúng đắn nầy, mà Đức Giáo Tông khỏi sai đường lạc lối. Người đã giữ vững được Hội Thánh và bổn Đạo dưới quyền Người, trọn trong sự an lành và ánh sáng của chơn lý Đạo Trời. Về phần đời trong bổn phận làm dân, người Đạo phải tuân theo những luật lệ của Chánh phủ.
5. Phải có công quả âm chất xứng đáng, mới bảo đảm cho sự luyện hành Tân Pháp được thành công.
Đức Giáo Tông thường dạy: làm công quả là lo tạo cơm và đồ ăn; tu luyện là tạo thêm chén đũa. Chúng ta có thể bóc cơm mà ăn cũng no được, chớ chúng ta không thể ăn chén đũa không được.
Chính tiểu sử của Người đã chứng minh: Người rất chú trọng làm công quả là chánh yếu, là căn bản trước; sự tu tịnh chỉ hoá hợp và đi theo sau. Và cuối cùng, với công quả âm chất đầy đủ, Người mới nhập Đại tịnh, để đoạt đến chỗ siêu phàm nhập Thánh, hầu có đủ huyền năng cứu độ rộng rãi quần sanh. Đức Giáo Tông, người Anh Cả Thiêng Liêng cao quý của toàn Đạo, đã nhập diệt từ năm 1951. Nhưng thanh danh Người sẽ tồn tại mãi mãi với Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Gương hạnh Đạo đức của Người sẽ sống vĩnh viễn trong tâm trí của muôn triệu Tín đồ.
Vậy với trọn tinh thần tin tưởng, tri ân và trung thành đối với Đức Giáo Tông, xin chấm dứt tập tiểu sử Người với lời chung kết sau đây:
ĐỨC GIÁO TÔNG
NGUYỄN NGỌC TƯƠNG
là hiện thân cho
GƯƠNG, LUẬT, PHÁP
của ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
HẾT


======




Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, còn được gọi là Hội Thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, là một tổ chức Hội Thánh (giáo hội) của đạo Cao Đài, được lập thành ngày 14 tháng Mười năm Giáp Tuất (tức ngày 20 tháng 11 năm 1934), do 2 chức sắc Cửu Trùng Đài Hội Thánh Cao Đài nguyên thủy là Quyền Thượng Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương và Quyền Ngọc Đầu Sư Lê Bá Trang đứng đầu. Đây là tổ chức Hội Thánh lớn thứ hai của đạo Cao Đài, quản lý hơn 70 vạn tín đồ Cao Đài, với 301 Thánh Thất và Nhà Tu tại 26 Tỉnh/Thành trong cả nước[1]. Trị sở của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo đặt tại Thánh Thất An Hội, số 100 đường Trương Định, Phường 6, Thành phố Bến Tre. Đây cũng là Thánh thất lâu đời nhất của đạo Cao Đài còn tồn tại (1934).


(Cao Đài Ban Chỉnh đạo Bến Tre với sứ mệnh thiêng liêng trong nền Đại đạo Tam kỳ phổ độ

Vào đầu thế kỷ XX, (năm Bính Dần 1926), đạo Cao Đài được khai sáng tại Việt Nam với tên gọi là Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, thực hiện tôn chỉ “Qui nguyên Tam giáo - Hiệp nhứt ngũ chi”, thực hành chủ nghĩa thương yêu để thống nhất tinh thần tín ngưỡng của nhơn loại, coi tất cả chúng sanh đều là anh em ruột thịt, con chung một Đấng Cha Trời mà độ dẫn nhơn sanh tu hành, làm lành lánh dữ, biết lo cư xử cho tròn nhơn đạo, xây dựng thế giới hoà bình, đại đồng tuyệt khổ.)



Tiểu sử Ngài Nguyễn Ngọc Tương

Ngày 17-5-Bính Dần, Ngài được Ơn Trên phong phẩm Phối Sư phái Thượng (Thượng Tương Thanh), đến 3-7-Bính Dần Ngài được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.
Ngài THƯỢNG TƯƠNG THANH
(NGUYỄN NGỌC TƯƠNG )
(1881 - 1951)


Ngài Nguyễn Ngọc Tương sinh ngày 26-5-Tân Tỵ (22-6-1881) tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Thân phụ Ngài là cụ ông Nguyễn Ngọc Đẩu (1857 – 1882), mất lúc Ngài được mười ba tháng. Thân mẫu là cụ bà Võ Thị Sót (1856 – 1919).

Lúc nhỏ, ở với nội là cụ ông Nguyễn Hữu Chơn (1832 – 1908), Ngài được cho học chữ Nho và quốc ngữ tại nhà. Năm 14 tuổi ra học trường tỉnh, đến 17 tuổi (1898), Ngài thi đậu vào Collège de Mỹ Tho. Năm 19 tuổi (1900), Ngài lên Sài Gòn học ở trường Chasseloup Laubat và tốt nghiệp năm 1902.

Ngài thành hôn với bà Trương Thị Tài (1886 – 1906) vào năm 1902, bốn năm sau bà mất, để lại hai con là Nguyễn Thị Tú (1903 – 1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1906 – 1951). Tái thú với bà Bùi Thị Giàu (1884 - 1937) năm 1908, Ngài có thêm ba người con trai là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910 - 1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911 - 1966) và Nguyễn Ngọc Nhựt (1918 - 1952) và hai gái là Nguyễn Thị Yến (1913) và Nguyễn Thị Nguyệt (1915).

Ngài Nguyễn Ngọc Tương thi đậu ngạch thơ ký Thượng Thơ, làm việc tại phòng Thượng Thơ Sài Gòn một năm , sau đó về Bến Tre làm việc từ 1903 đến 1919. Tại Bến Tre, Ngài tham gia nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, đạo đức (như cùng tổ chức thành lập hội Buôn An Nam, hội Khuyến Văn...). Đến cuối năm 1919, Ngài thi đậu ngạch Tri Huyện, làm chủ quận Châu Thành (Cần Thơ) được ba tháng thì đổi đi quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên.
Từ năm 1924 đến 1927, Ngài làm chủ quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thời gian này, Ngài được thăng Tri phủ Thượng Thơ, và nhập môn Cao Đài (khoảng hạ tuần tháng Chạp Ất Sửu). Ngài đã độ dẫn nhiều nhân sĩ quanh vùng, cũng chính vì vậy nhà cầm quyền lại chuyển công tác cho Ngài đi xa.

Từ 1927 đến 1930, Ngài làm chủ quận Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa. Nơi đây, Ngài khai hoang, mở trường, lập chợ, đắp đường nối Long Hải với Nước Ngọt... giúp ích rất nhiều cho địa phương, thuở ấy còn khá hoang sơ. Đồng thời Ngài cũng kết hợp truyền giảng mối đạo Trời.

Ngày 17-5-Bính Dần, Ngài được Ơn Trên phong phẩm Phối Sư phái Thượng (Thượng Tương Thanh), đến 3-7-Bính Dần Ngài được thăng Thượng Chánh Phối Sư tại Vĩnh Nguyên Tự.

Tháng 2 năm Tân Mùi (1931), Ngài Thượng Tương Thanh phế đời, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh. Văn bản đầu tiên của Ngài (số 1, gởi đến các Thánh Thất) ban hành vào ngày 2-2-1931.

Đầu năm 1927, thọ lệnh Đức Lý Giáo Tông tại chùa Gò Kén, Ngài cùng bà Lâm Hương Thanh đứng bộ đất đai, tài sản tại Thánh địa mới mua (làng Long Thành, Tây Ninh). Điều thứ nhì Đạo Nghị Định thứ Nhì ban hành ngày 3-10-Canh Ngọ (1930) đã chỉ định Ngài Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh kiêm Quyền Thượng Đầu Sư.

Từ năm 1931 đến 1934, tại Thánh địa Tây Ninh, Ngài đã góp phần vào việc khai khẩn đất, cải tiến giáo dục và y tế. Thời gian này cơ đạo gặp nhiều sự chinh nghiêng. Năm 1934, Ngài lui về ẩn tu tại núi Kỳ Vân (Đất Đỏ- Bà Rịa) một thời gian. Sau đó, đến 24/7/1934, Ngài trở lại hành đạo và tạm lập văn phòng tại Thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và An Hội (Bến Tre).

Ngày 14-10-Giáp Tuất (20/11/1934) nhị vị Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh và Quyền Đầu Sư Ngọc Trang Thanh cùng tách rời Tây Ninh về Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo

Theo quyển “Tiểu Sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương”, trang 53, cho biết: đến ngày 15-1-Mậu Dần (1938) nhiệm vụ Chỉnh Đạo đã chấm dứt. “Từ nay, chỉ có Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để hướng dẫn nhơn sanh tu hành đúng theo chơn truyền và Tân pháp Đức Chí Tôn”.. Ngày 11-1-Ất Hợi (1935) tại Thánh Thất An Hội Bến Tre, Đại Hội bầu cử Ngài Thượng Tương Thanh làm Giáo Tông (Ban Chỉnh Đạo).

Bên cạnh việc phổ độ nhơn sanh, Ngài Thượng Tương Thanh rất chú trọng đến pháp môn tu tịnh. Từ khi xuất gia hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh, hằng ngày Ngài trì hành công phu tứ thời. Khoảng thời gian từ 1934 đến 1942, Ngài qua 10 kỳ đại tịnh, có đợt đến 120 ngày.

Và, đến đợt đại tịnh cuối cùng từ 22-2-Nhâm Ngọ (1942) đến ngày Ngài đăng Thiên vào Rằm tháng 5 - Tân Mão (18-6-1951), thời gian tổng cộng 9 năm 81 ngày. Đạo gia gọi là Cửu niên diện bích. Liên đài của Ngài an vị trước Thánh Thất An Hội

Không có nhận xét nào:


Visitor Map

web stats
Bản Đồ Hành Chánh Ba Tri
Photobucket Photobucket
Không Ảnh Thị Trấn Ba Tri
Photobucket
Photobucket