Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2011

LTC006- Đêm Dài Sắp Sáng

Đêm dài sắp sáng

Đất phù sa bồi vườn xanh bát ngát
Muối Ba Tri mà mượt sóng tình quê
Quê Cái Mơn cành trĩu trái xum xuê
Dừa tráng bánh Mỹ Lồng ôi ngọt lịm

Bao sợi nhớ sợi thương luôn hiện diện
Kiến Hoà nay loang lổ vết tường rêu
Thành im lìm chiến mã lạc tình yêu
Sai lỡ nhịp , thanh âm xưa vẫn sáng

Yên cương chiếu nguyên trinh màu hùng tráng
Cánh mai rừng vai máng áo hiên ngang
" Dậy mà đi " vó ngưa nhịp vang vang
Ngời chói rạng đuốc thiêng ngày xum họp

Trăng đầy ngõ rừng cờ bay bóng rợp
Thuyền lướt nhanh sống dậy cánh buồm mơ
Thành quách cũ giăng tơ chờ dũng sĩ
Sương mai vờn thỏ thẻ tiếng loa thơ

Hoa Chanh

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011

LTC005- Ba Tri Niềm Nhớ Không Tên

Ba Tri niềm nhớ không tên

Paris vào mùa nắng ấm . Mỗi độ Hè về từ trẻ em đến người trọng tuổi ai ai cũng đều tỏ ra rất dễ chịu và thoải mái .Có lẽ sau những năm tháng u sầu cùng mưa Thu và cái mùa Đông gía buốt đã khiến cho người người thật hân hoan khi có ông mặt trời hiện diện thật lâu trong những ngày Hè . Ta có dịp thân thiện hơn với người hàng xóm vì câu chuyện mở đầu trong ngày thường là : hôm qua Anh ( chị , em) có xem trận đá banh giữa ......và ...... tiếp sau đó là những lời bàn về nhũng cầu thủ , về những cú đá tuyệt vời....

Thường vào Hè là mùa tranh giải thể thao nhộn nhịp . Khoảng bốn năm một lần người ta lại tổ chức những trận túc cầu quốc tế . Những cầu thủ đi tranh giải cho bất cứ một quốc gia nào cũng đều được săn sóc kỹ lưỡng về chế độ dinh dưỡng cũng như về mặt tinh thần . Đội nào cũng muốn giành phần thắng nên các huấn luyện viện " o gà " kỹ lắm !. Ngay cả sân để tập dợt cũng như sân diễn ra trận đấu đều đúng tiêu chuẩn quốc tế với những kích thước đúng đắn được bao phủ bởi lớp thảm cỏ mượt mà ...

Mình vòng vo dài vòng văn tự bởi vì khi nhìn các cầu thủ sau màn dự đấu, sự thắng thua đã làm cho kẻ khóc người cười . Lòng tôi nao nao hồi tưởng nhớ về một khoảng đời xa xưa ...
.
Năm ấy mình còn rất trẻ .Ra trường làm cô giáo với bầu nhiệt huyết tràn đầy . Bước đầu đời tránh sao sự lo âu hồi hộp , nhưng thật là duyên may hạnh ngộ với Ba Tri , một quận lỵ xa xôi mà người ta đồn rằng ấy là nơi nước mặn đồng chua , khi chân ướt chân ráo bước đến mấy ai tránh khỏi sự ngại ngùng bỡ ngỡ .Nhưng những khắc khoải ấy được nhanh chóng xóa tan để thay vào đó niềm hân hoan khó tả khi mình được ban giám hiệu và đàn Anh Chị đồng nghiệp tiếp đón thật ân cần .

Năm tháng dần trôi ...có biết bao câu chuyện quẩn quanh trong nghề nghiệp đôi khi cười ra nước mắt mà lắm lúc cũng nhiều sự việc rất đỗi đắng cay. Mình lấy niềm vui làm hành trang tiến bước và những nỗi buồn mỗi lần gặp phải mình cố phấn đấu hơn để vượt chông gai lướt qua .Sự can đảm ấy có được một phần là do tấm lòng của những em học trò sống trong làng mạc đơn sơ bình dị mà trái tim thật là nhơn hậu đã cho mình những tấm tình người ấm áp vô biên .

Mùa Xuân năm ấy ....Trường trung học Ba Tri được mời tranh giải đá banh cùng trường trung học Mỹ Lồng . Thầy H là trưởng ban thể thao sẽ phụ trách dẫn đội banh thi đấu . Trong đội tuyển của trường có rất nhiều em là học trò của mình , chúng rủ nhau đến nhà và mời mình đi xem buổi tập dợt trước khi ra quân .

Sân tập là một cánh đồng trơ gốc rạ . Vì gần Tết sau vụ mùa có nơi người dân lên liếp trồng dưa hấu . Còn người dư dả hơn thì đất ruộng bỏ trống chờ mùa mưa mới cày cấy cho vụ mùa sau . Thương thiệt là thương học trò ở quê thời ấy , hầu hết chúng đều "xuống sân " với những bước chân trần . Thử mà tưởng tượng xem , gốc rạ khô đâm vào chân , không quen sẽ bị rướm máu như bị kim châm .Đau thấu trời xanh !. Ấy vậy mà khi nghe tiếng cổ vũ reo hò của các bạn chung quanh , đội tuyển Ba Tri xông xáo lừa banh có thua gì những đội banh chuyên nghiệp !

Hôm ấy . Đúng vào ngày ra quân......Thầy trưởng ban thể thao bận việc gia đình không thể nào hướng dẫn đội banh của trường lên Mỹ Lồng thi đấu . Các em học sinh của đội banh cùng những cổ động viên nhao nháo lên, có đứa muốn mếu vì sợ rằng sẽ bị bỏ cuộc . Ban giám hiệu và các em đại diện khẩn cấp hội ý. Bỗng một đám đông học trò ào ạt kéo đến bên mình và đồng thanh hô to: Hoan hô cô C. Ban giám hiệu đã đồng ý mời cô đại diện cho trường Ba Tri mình dẫn tụi em đi thi đấu . Úy mèn đét ơi !!! Tôi hết cả hồn và có lẽ là gương mặt mình lúc nầy trông buồn cười lắm, nếu so với tàu lá thì có lẽ da mình bấy giờ chắc chắn là tái xanh hơn .

Nhưng khi nghe lời khẩn khoản của đám học trò dễ thương, mình không đành lòng từ chối . Mà nhận thì cũng hơi "teo ". Nói có trời đất minh chứng, thiệt tình hồi nhỏ đến giờ mình có xem qua vài lần thiên hạ tập đá banh trong sân vận động ở Bến Tre, xem cho qua thời giờ trong khi chờ tập thể dục do cô Ất làm chủ nhiệm . Mình chỉ thấy họ giành banh đá qua đá lại chứ còn luật lệ mình có biết tí gì đâu ! Thôi thì may rủi phú cho trời . Hy vọng mọi tốt lành sẽ đến cho đội nhà .

Thấy trò chúng tôi chuẩn bị lên đường . Thời mới đổi đời nên củi quế gạo châu , không nên thắc mắc đòi hỏi nên , đành tự túc mà đi . Nghĩ lại mà thương vô cùng đám học trò chơn chất của mình . Dưới cái nắng gay gắt ban trưa mà thầy trò hè hụi chở nhau trên những chiếc xe đạp cũ kỷ . Thương nhứt là những cổ động viên hầu hết là những đứa con gái dễ thương, dù những đôi má đỏ ửng vì nắng táp , mồ hôi nhễ nhại mà vẫn cố đạp cho xe lăn bánh đều đặn để theo kịp đám con trai . Các em gái thật là chu đáo, chúng cụ bị chở theo những thứ giải khát dù toàn là cây nhà lá vườn: nào mận, nào chanh, nào mía, nào củ sắn vừa mới nhổ lên nhai nghe giòn rụm.....Ôi Khoan khoái làm sao trong lúc cổ khô mệt mỏi như vầy những quả trái quê hương nghe thật đậm đà hương vị thân thương .

Đoàn xe đap cọc cạch lăn bánh , vất vả lắm chúng mình mới đến được điểm hẹn .Đó là sân trường trung học Mỹ Lồng . Để cho các em trong đội banh được nghĩ ngơi hồi sức khoảng hai mươi phút . Giờ đây , chúng tôi đã sẳn sàng xuất trận ra quân . Phía đội banh Mỹ Lồng có các thầy theo ủng hộ . Trọng tài là hai thầy đến từ Giồng Trôm . Thật tình mà nói , người ta thường ví những người có máu ham thích thể thao hầu hết họ đều có tinh thấn thượng võ cao , nhưng trong sân đấu hôm nay ôi sao mà tréo ngoe ngược ngạo!.

Mình thì chẳng biết ất giáp gì về luật chơi banh, hơn nữa mình lại là phái nữ nên cả "trọng tài và huấn luyện viên" của hội Mỹ Lồng toa rập nhau để " ăn hiếp " đội Ba Tri . Nhiều lần bị bắt lỗi ức oan . Cả đội banh lẫn đám học trò cổ động viên của mình tức tối khiếu nại :

- Tụi nó phạm luật : "Me" nhiều lần mà trọng tài không phạt sao cô không phản đối . Đòi phạt "Me" đi cô! tụi nó chơi xấu và ăn gian quá !

Tôi ngẩn tò te và láp giáp một mình ; tại sao đá banh chơi xấu mà phải phạt bằng me? Mà phạt mấy ký một lần?

Bỗng bầu không khí sôi động bị phá tan bởi vang vang một chuỗi cười ròn rã của một bác ngồi bên cạnh tôi, bác ấy rất thích coi đá banh nên chịu khó đội nắng ra đây

- Đám học trò của Ba Tri có lý vì Đội Mỹ Lồng ăn gian dùng tay để giành banh đó cô giáo ơi !

Mình vỡ lẽ mới hiểu ra : " me " là nói trại của từ " main " . Bó tay !

Nhưng trời thương người ngay thế yếu ( chỉ yếu kém hiểu biết về luật lệ chơi banh thôi à nha ) , nhưng bù lại sự quyết tâm và tinh thần đoàn kết dâng cao đã giúp cho các cầu thủ Ba Tri thắng cuộc với chỉ số 2-0 . Đội tuyển Mỹ Lồng đành ôm banh về nhà ... nghiên cứu . Hen sẽ rửa hận lần sau..

Thầy trò chúng tôi khăn gói trực chỉ Ba Tri quận . Tuy rằng hơi mệt vì cố sức trong trận đấu nhưng trong đoàn luôn vang động tiếng nói cười rôm rả . Dù con đường dài long chong đầy ổ gà sỏi đá ;nhưng hình như chúng tôi đã quên đi những muộn phiền trong trận tranh hùng . Trong giây phút nầy thầy trò thật thoải mái hân hoan để cùng nhau hít thở bầu không khí thơm lành dịu mát của hương quê . Mặt trời chiều len lén núp sau những đám mây thong thả chờ trăng . Những cánh đồng hai bên đường hôm nay trông thân thương lạ !. Tự dưng mình nghe một niềm vui khó tả len nhẹ vào hồn ...

Chiều nay ngồi ngắm hoàng hôn bên bờ sông Seine . Gió tung tăng thổi sóng lao xao bì bõm vỗ vào bờ .Hình ảnh ấy khiến mình cảm thấy nao lòng biển nhớ Ba Tri . Lớp bụi thời gian dù đã hơn ba mươi năm vô tình bao phủ theo những hối hả của cuộc sống đời thường . Nhưng trong tôi mỗi khi tìm về quá khứ vẫn nhớ vẫn thương những kỷ niệm buồn vui của một thời êm đềm được làm cô giáo nơi quận Ba Tri .

Xin vẫy tay chào: Giồng Bông , Giồng Nhàn., Tân Thủy ..Tạm biệt nhé Ba Tri yêu mến . Dù phượng trường xưa có già thêm vì nhuốm nhiều phong sương . Nhưng tim phượng luôn hồng khi mà vị mật hương xưa vẫn luôn ngọt ngào thoang thoáng bâng khuâng....


Ôi ! Ba Tri phượng hồng ươm sắc thắm
Ta mênh mang niềm nhớ rủ nhau về
Người xa xăm vẫn còn tương tư phố
Nghe rưng rưng lời hẹn sẽ về thăm

Hoa Chanh (Lưu Thị Chiêu)

Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2011

LTC004- Trĩu Đầy Kỷ Niệm

Giây Phút Bình Yên

Nữa cũng chẳng vui, thôi cũng buồn.
Nghe thì nghịch lý, ngẫm càng thương
Bao năm trầm bổng trên sàn diễn,
Mấy lúc hồn nhiên dưới hậu trường.
Bình thản, trơn tru câu hoan lộ
Vô tư, suôn sẻ khúc cương thường
Phải chăng được vậy là tiên giới?
Hà tất bôn ba để chán chường.

Phan Hữu Dương

><><><><><><><

Ông Giáo Về Hưu

Tặng PHD

Một đời dạy học: Bốn mươi năm
Phút chốc về hưu! Trọn kiếp tằm!
Dạy Tiểu, dạy Trung: Anh với Pháp
Làm thầy, làm Hiệu: Hán rồi Văn
Tiếng thơ gợi nhớ đời dâu bể
Men rượu vờ quên chuyện thế nhân
Bao khách sang sông... đời vạn nẻo
Chạnh lòng như thiếu kẻ tri âm!

T Thu


Tạm họa: Ông Giáo về Hưu

Vào cuộc trần ai sáu chục năm
Bốn mươi mùa Hạ nghiệp tơ tằm.
Môn Anh chưa trọn sang môn Pháp,
Lớp Hán còn vương nhớ lớp Văn
Viết tạm câu thơ cho thế hệ
Tiêu dần tuổi tác với tha nhân
Sang sông, có hỏi ông đò ấy
Tri kỷ ai người đến phối âm?

Phan Hữu


Kính họa: Tiễn Thầy Về Hưu

Một mái chèo buông: Bốn chục năm
Thoáng như giấc điệp kiếp ươm tằm!
Pháp, Anh đưa khách sang bờ mộng
Hán, Việt khơi hồn động nét Văn
Nước bạc sầu vương chân lữ thứ
Rượu nồng hoài cảm ý thi nhân
Tà dương bến vắng ông đò ấy
Sóng vỗ đôi bờ mãi vọng âm.

Minh Thu



Nỗi Lòng

(Họa Nguội)

Ngày lại ngày qua năm tiếp năm
Ăn dâu xứ lạ khổ thân tằm
Bao phen cõng tuyết: mơ miền nắng
Mấy lượt qua trường: nhớ chốn văn
Ðâu quản hơi tàn thân thất quốc
Cam đành xa xứ kiếp thuyền nhân
Ơn đời trót nhận làm sao trả ?
Xin lắng nghe người mỗi sắc âm!

NhàQuê


><><><><><><><><

40 Năm Dạy Học

Gắn bó trước sau một mái trường
Cả đời dạy học , tóc pha sương!
Bốn mươi năm chẳn: nhiều nông nổi
Ba điểm trường qua: lắm vấn vương! (*)
Dâu bể cuộc đời: thôi...lại nữa
Tâm tình số phận: giận...rồi thương!
Ðưa đò đã mỏi tay chèo chống
Vẫn mộng mơ đời lắm sắc hương...

T Thu

(*) trường đình, trường cũ, trường hiện nay



Họa bài: 40 Năm Dạy Học

4 Năm Về Hưu

Ðiền viên lẽo đẽo bốn năm trường,
Góc vắng soi mình bạc khói sương.
Nghĩ đã chia tay đời dạy học
Sao còn nấn ná kiếp tơ vương!
Nhân tình lắm lúc nghe chua xót
Thế sự bao lần cảm tiếc thương!
Cũng nguyện tấc hơi giờ phút cuối
Chút phần bé nhỏ với quê hương?

Tháng mười 2004
Phan Hữu Dương


Kính họa:

Dư Hương Trường Cũ

Nối gót Thầy Cô: Trở lại trường
Thuở mùa xanh biếc đến thu sương.
Sông xưa nước đổi đưa dòng khuất
Mái cũ người thay để khói vương.
Số phận nổi chìm bao khúc cảm
Tình trần ngân lặng mấy cung thương!
Tiếng tơ day dứt hồn nhân thế
Còn có bao giờ đượm chút hương?

Tháng 10/2004
Minh Thu


Họa vận: 40 Năm Dạy Học

Thắm thoát bốn mươi, vẫn một trường.
Dốc lòng dạy học phải phong sương.
Bao năm xuôi ngược nhiều nông nổi.
Lắm lúc phong trần phải vấn vương.
Thời thế, thế thời, thời phải thế.
Giận thương, thương giận, giận rồi thương.
Ðưa đò: cái nghiệp luôn chèo chống.
Mơ ước cho đời mãi sắc hương.

Trương Văn Châu


Gắn bó chưa lâu một mái trường.
Nửa đời dạy học lắm phong sương.
Lênh đênh, xuôi ngược nhiều nơi đến.
Tha thiết, trước sau một mối vương.
Số phận đổi dời đành phải chịu.
Cuộc đời chìm nổi nghĩ mà thương.
Ðắng cay cái nghiệp đưa đò ấy.
Gắng điểm cho đời luôn sắc hương.

Ðào Thị Mai



Trĩu đầy kỷ niệm

Ngừng ngập luyến lưu xa ngôi trường
Giọt buồn hoà lẫn giọt mai sương
Đọng bờ mi ướt nhoà điểm đến
Trĩu đầy kỹ niệm mãi vấn vương
Tha hương nhớ lắm Ba Tri quận
Thương trò thương lớp thương người thương
Rời bến xa đò se lòng thắt
Trời chiều xế bóng đậm dư hương

Lưu thị Chiêu

LTC003- In Đậm Hương Quê

In đậm HƯƠNG QUÊ

Tâm tình gởi trọn mảnh vườn con
Trong tim in đậm dấu xưa còn
Mồng tơi tim tím giàn hoa mướp
Bông bí khoe màu khóm cải non

Rau răm thơm phức đám tía tô
Mấy liếp um tùm dền đậu ngô
Chăm nom khuây khỏa bao niềm nhớ
Khơi ánh lửa hồng dậy tuổi thơ

Phiêu bạc xứ người thương quê cha
Hương quê gói kín góc vườn nhà
Cứ mãi vấn vương về cố thổ
Năm tàn tháng lụn há phôi pha

Quê mẹ xa mù núi non che
Nhớ mùi rạ mới chạnh lòng se
Đất khách gợi buồn hồn bảng lảng
Tím cả hồn chiều vương khói quê

Lưu thị Chiêu

LTC002- Niềm Nhớ Khôn Nguôi

Niềm nhớ không nguôi

Ai thăm quê biển Ba Tri
Gởi lời từ tạ người đi chưa về
Bể dâu lắm cảnh nhiêu khê
Ba mươi năm lẻ chẳng hề phôi pha
Bước đi chùn những xót xa !
Học trò, bè bạn thiết tha... ngậm ngùi
Ngôi trường gói kỷ niệm vui
Hành trang quà tặng tiễn tôi lên đường
Con lộ đất đỏ thương thương
Mòn đôi guốc nhỏ vấn vương thuở nào
Nhớ Ba Tri dạ nao nao
Cho tôi phong kín biết bao tình người
Nẻo ấy mù mịt xa vời !
Nhưng luôn đọng lại rạng ngời trong tôi

Lưu thi. Chiêu

LTC001- Man Mác

Man Mác

Đậu đệ thất Mẹ may cho áo mới
Dài hai tà , che e ấp trong tôi
Nhí nhảnh sao màu áo trắng tinh khôi !
Thẹn thùng bước khi ai kia nhìn trộm


Theo năm tháng áo dài thôi luộm thuộm
Tà bay bay lãng mạng mỗi Hè sang
Thơ thẩn mơ nhiều mộng đẹp huy hoàng
Mười bảy tuổi xa trường rời bạn cũ

Vẫn hai tà dài thêm bao lốc lũ
Chốn đô thành lắm cạm bẫy đua chen
Bao quyết tâm rèn luyện gặm sách đèn
Hai tà ấy thắm màu khoe chiếc áo

Về Ba Tri thướt tha làm cô giáo
Đời rực hồng bên đám trẻ yêu thương
Thấm nỗi đau oằn oại của quê hương
Đành rời xứ ngùi ngùi chôn kỷ niệm

Điểm sương trắng mái đầu ta tìm kiếm
Tà áo xưa nhuộm lắm những phong trần !
Ngôì suy tư buồn man mác lâng lâng
Hai tà ấy gói tâm tình sâu kín

Lưu Thị Chiêu (Hoa Chanh)

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2011

Thơ007- Đi&Ở ...Đi&Đến

Đi & Ở

Biết đến giã từ, bạn tiễn ta
Món ngon vật lạ có chi là
Nửa chai rượu đế vừa mua chịu
Khô nướng cơm chiều mới nhín ra
Từ độ xứ người lê gót nhói
Thường khi thức giấc buốt về xa
Cố hương mù tít nghe gần lắm
Đứng cạnh trái tim, rất mượt mà

NhàQuê

Tên kêu từng đứa bước vô tù
Cứ nghĩ lần nầy sẽ vạn thu
Ngầm tiễn dúi ta ve rượu gốc
Dặn thầm cất kỹ chút quà như
Rượu thần theo bước qua muôn khổ
Linh dược cạnh bên thế mẫu từ
Ve rượu hà nàm nhiều trại chuyển
Tấm tình trong đó có vơi ư

NhàQuê

Lê lếch thân tàn về cố xứ
Đời nầy đã thật sự sang trang
Thân sơ nháng thấy từ xa tránh
Giòng họ xem như chẳng buộc ràng
Mới đó mà nay ta đã mới
Rất ngu đần cũng rất lầm than
Cứu thân luôn cứu đời con cháu
Viễn xứ, dư đồ ta vẫn mang

NhàQuê

Chưa qua suốt hết đoạn đường trần
Đi Ở hợp tan biết mấy lần
Bất chợt ngưng mưa bừng nắng hửng
Thình lình sóng cuốn nước trôi phăng
Phàm trần Đi Ở đâu mình tự
Tạo Hóa sắp bày định kiếp căn
Thủ diễn trọn vai thôi bước xuống
Ngộ ra Đi Ở chẳng băn khoăn

NhàQuê Oct 17, 2006


Đi & Đến

Vài hôm trước hay tin lão bạn
Vừa mới đây vẫn tỏ yêu đời
Vụt đột quỵ… mọi giờ khăn khó
Nghĩ mất còn …sợ trễ quá thôi

Ráng có thể…. tới đâu hay đó
Tạm xem đây …dòng chữ cuối cùng
Xếp bút nghiên… thôi ngừng thơ phú
Tự cho mình khoảng ngắn thung dung

Được như vầy đã phần mãn nguyện
Vốn chân quê hưởng phước ân ban
Ba má nghèo mồ hôi tươm áo
Mong muốn con thoát cảnh cơ hàn

Được đi học giữa bao trẻ khác
Đứa giữ trâu... ở mướn... bắt cua
Người thành thị quần là áo lượt
Cuộc phân tranh đâu phải là vừa

Cám ơn Thầy rót nguồn kiến thức
Phễu đong đầy đều đặn như nhau
Bộ não phèn dần dần trong cước
Xin đời đời ghi tạc thâm sâu

Bước xuống đường bấy nhiêu hành lý
Tạ ơn Em đến cạnh rất gần
Chấp nhận hết muôn vàn cam khổ
Chất vai gầy gánh nặng ngàn cân

Vốn ít chữ củi châu gạo quế
Cuộc mưu sinh lây lất đợi chờ
Nguội binh lửa can qua quá khứ
Ước mơ nầy hình chỉ trong mơ

Kẻ nướng thịt giở kinh ngày cũ
Đọc vang vang bổn phận làm người
Ăn hạt thóc núi sông.. đã nợ
Ném vô vòng máu đổ thây phơi

Thói quen mới lằn tên mũi đạn
Đêm ngủ đầu quay hướng bao nhiêu
Chân thòng nước chia phần ụ đất
Như anh em san sẻ mọi điều

Hai lăm tuổi thanh xuân biết mấy
Máu tuôn dòng nợ nước đền xong
Nửa còn lại phế nhân từ đó
Thương tích đau tiếp bước cõi hồng

Xếp lại hết mọi điều ân oán
Khóa ngăn sầu… liệm nỗi buồn riêng
Nếu có phải biển vùi kiếp khổ
Lòng an nhiên chân bước xuống thuyền

Ở một nơi có Xuân hoa nở
Mùa Hè trong…rực rỡ đan thanh
Cứ đúng hẹn Thu về khoe sắc
Đông buồn chăng …sao vẽ thành tranh

Cũng nơi ấy ... giống từng ruồng bỏ
Mọc xanh um... xòe lá khoe cành
Cảm thư thái ... thân già nhẹ hững
Đêm không còn nơm nớp thâu canh

Lòng sảng khoái bên đời tươm mật
Lắng sâu trong... khơi mạch thành thơ
Lối tiêu dao ...bao người xưa đã
Lần bước theo thích thú đâu ngờ

Ngày giong ruổi qua bao cảnh lạ
Đêm gối đầu nghe suối hát ca
Lâu lâu mở ngăn đời đã cũ
Thử hành hương trở lại thăm nhà

Những tự nhiên theo chiều thiên định
Thoát làm sao Tứ Khổ đời người
Dọn mình bước qua miền thanh thản
Cứ xem là tàn cuộc rong chơi

Đứng nhìn lại nơi lần đầu đến
Những gần xa vướng víu trên đường
Đọc niệm khúc oán thù xin xóa
Vẫy tay chào gởi lại yêu thương

NhàQuê Dec 24, 2009

Thơ006- Góc Hành Lang và Mùa Học Mới

Góc Hành Lang

Chiều ghé lại cà phê Starbucks
Ngồi góc quen nhìn ngắm dòng người
Cháu nội soạn mấy tờ homeworks
Bày ra bàn vẽ vẽ bôi bôi

Dòng đời chảy qua ba thế hệ
Cuộc tang thương đưa đẩy mệt nhoài
Tiếng mẹ đẻ cháu giờ ú ớ
Ta lão già rước trẻ làm vui

Học trò nhỏ ngày xưa ông đã
Cũng viết chì bút mực cục gôm
Bìa vở cuốn… xòe tay thầy khẻ
Mực nâu xanh đốm áo bị đòn

Nhịn tiền bánh mua tờ giấy chặm
Gắng giữ cho chữ đẹp đừng nhòe
Sợ xấu quá thầy phê ít điểm
Nắn nót nhờ … ngòi viết lá tre

Nói cho mấy thể nào tưởng nổi
Học trò xưa thiếu thốn đủ điều
Nắm cơm vắt giữa hai buổi học
Qua khoảng đồng đường xá vắng hiu

Niềm vui mới bây giờ con cháu
Tiếp thay ta nối giấc mơ xưa
Hớp cà phê sáng ngời trí nghĩ
Có già nua đâu đã dư thừa

NhàQuê 2008


Mùa Học Mới

Nước Mỹ tuần sau vào mùa học
Đường cày thẳng tấp ruộng thênh thang
Hạt giống mầm ươm chờ gieo xuống
Đó đây cười nói những rộn ràng

Mầu mỡ biết bao vùng đất mới
Bén rễ vươn nhanh đến không ngờ
Cây non nguồn gốc từ nhược tiểu
Lá cành xanh mướt dưới trời mơ

Khai hoang công khó ba Thế Kỷ
Năm giống nay trồng xen lẫn nhau
Khoe sắc Nâu Vàng Đen Trắng Đỏ
Trổ hoa xinh xắn biết là bao

Chiều nay chỗ cũ ngồi góc quán
Nghĩ về thế hệ hướng tương lai
Ngẩng cao kiêu hãnh nhìn phía trước
Vững tin rồi sẽ tiến bước dài

Quê xưa hồng thủy vườn tan tác
Người người vất vưởng tìm miếng ăn
Lớp mới cây non èo uột mọc
Phải nương theo gió uốn cong oằn

Thương cho trí tuệ biết là bao
Xoáy mòn tàn lụn khác chi nào
Tài nguyên phí phạm…phân vơ vét
Tuổi trẻ còn gì để dành sau

Bàn bên ríu rít ba cô gái
Đến từ nhiều chỗ xa rất xa
Họ kết thân nhau trên đất học
Xin chào cầu chúc đẹp mộng hoa

Cám ơn xứ Mỹ cứ đến mùa
Đem nguồn hứng cảm tiếng chuông khua
Ngân vang thức dậy từ sâu thẳm
Ký ức về ngày tưởng đã xưa

NhàQuê 23.08.09

Thơ005- Mùa Vu Lan

Mùa Vu Lan

Mùa Vu Lan đọc bài thơ về Mẹ
Nét đan thanh vẽ lại đấng mẫu từ
Cách xa nhau mù khơi bao hải lý
Mắt ta rưng lời nói hộ dường như

Mỗi một thời bao lời ca dâng Mẹ
Đời qua thêm nghiệt ngã khắc khe nhiều
Ơn thọ hưởng càng cao dầy chất ngất
Chưa có gì đền đáp được là nhiêu

Lẽ tử sinh kiếp người hằng vẫn biết
Phút chia ly ai cũng tới bến bờ
Trong huyền diệu nhiệm mầu nơi cõi vĩnh
Vọng thân yêu đâu đó dõi mắt chờ

Trần thế nầy bước đường còn dài ngắn
Trong thâm sâu gương lộng đấng sanh thành
Lòng thanh thản nối nẻo đường công đức
Một mai xong ... ta cất bước nhẹ nhàng

NhàQuê 2007

Văn007- Muối




Những "ngôi Trường xưa Em học"


Đoản 7: Muối







(Kính Dâng Ba Má, Tri Ân Nhạc Phụ và Thương Yêu Tặng Mẹ Các Con)


Thuở ấy tuổi hoa niên, tôi hòa nhập vào dòng chảy chính cùng các bạn khác mỗi ngày một đông dần thêm: Tôi là học sinh Trường Trung Học Công Lập Bến Tre, Trường Trung Học Kiến Hòa tên gọi về sau. Tôi hãnh diện là!

Chúng tôi đến từ nhiều hoàn cảnh khác nhau, đến từ nhiều nơi chốn khác nhau, cách trú ngụ cũng khác nhau, đến từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau, tuổi tác cũng khác nhau ... cái chung là chúng tôi theo đuổi cùng một chương trình giáo dục phổ thông đồng đều của chính phủ lần đầu tiên của tỉnh tôi: Tỉnh có ba dãy cù lao, có ngút ngàn dừa xanh lả ngọn quanh năm trĩu quả, có cánh đồng lúa hát vui mùa lên đòng ngậm sữa, có mấy cánh rừng nước mặn kiêu hãnh trực diện thách thức từng cơn sóng dữ biển Ðông...

Nếu có một thang biểu để xếp hạng có lẽ tôi ở trong nhóm thấp kém nhất về nhiều mặt, không hiểu sao tôi đã che dấu tung tích nghèo nàn thiếu thốn của mình suốt tháng năm ròng rã nơi “cửa Khổng sân Trình" ấy.

Tôi cố thủ trong vỏ ốc mặc cảm hàn vi của mình. Tuy nhiên tôi cũng có vài bạn để gần gũi, vì tôi đã có lần ngủ đêm trong cái nhà người bạn: Cái nhà trống trước trống sau, vách phên rách nát, bà mẹ phải tha phương làm mướn làm thuê, lâu lâu về cho chút tiền và anh em họ đùm bọc nhau giữa hai kỳ mẹ về với đàn con rồi lại ra đi.

Vài bạn khác mà em gái phải hy sinh việc học hành để hàng ngày vun xới mảnh vườn bên cạnh người cha không còn chân nào sau ngày hòa bình tạm thời lập lại...

So các bạn ấy tôi thầm nghĩ tôi còn diễm phúc ít ra là trong hai năm đầu tiên khi Ba tôi chưa đột ngột từ trần.

Sự ra đi của Người làm gia đình tôi nghiêng hẳn! Lần đó có vài bạn hay tin tới thăm trễ, nhưng làm tôi hổ thẹn thân thế mình trong thời gian dài trước khi tôi nhận ra nghèo không phải là một điều gì ghê gớm!

Bây giờ không trễ tôi xin tạ lỗi cùng các Bạn, vì những ý nghĩ chưa lần nào nói ra ấy và đã tiếp các bạn xơ xài, không xứng đáng những nghĩa cử ưu ái mà các bạn từ xa lặn lội đến thăm. Các Bạn còn khuyến khích tôi đừng bỏ học...

Sau mỗi mùa Hè, tôi trở lại trường tóc hoe da nám của mấy tháng theo thuyền buồm ra biển, sang sông bắt xò nghêu, lặn lội vô rừng bắt cua bắt cá. Số tiền kiếm được phụ giúp một phần vào chi phí ăn ở cho năm học kế tiếp. Thiên nhiên thời ấy cũng góp phần...

Các em tôi đều dừng lại ở tiểu học cùng Má tôi lo cái nguồn lợi huyết mạch: lò nấu muối. Ba tôi một tá nông dành dụm mua được hai mẫu ruộng rẫy trước đã mướn. Mỗi năm có một vụ mùa vào những tháng nước ngọt, hai mẫu đất thiếu trước hụt sau vì gò và rạch xẽo cũng được tính vào diện tích chung, còn phần trằn thì năm nào lúa cũng bị nước chảy mẹp. Trúng mùa cho lắm cũng chỉ hơn trăm giạ đôi chút. Thế còn hơn nhiều gia đình khác chạy gạo từng ngày!

Từ tôi còn nhỏ lắm, Ba Má tôi đã làm thêm việc nấu muối, nấu nước mặn lọc ra từ đất nhiễm nước biển, lớp đất trắng mốc thít, công việc nầy đòi hỏi nhiều sức cần lao từ bước đầu tiên đi nạo vét lấy đất có chứa muối cho đến khi vớt được những hạt muối trắng ngần kết tinh từ lò nấu liên tục không ngừng nghỉ ngày đêm, bên cạnh đó phải có đủ củi đốt cho dù là cây tươi, chuyện nầy không phải dễ dàng!Về sau nước mặn dùng để nấu thành, do lọc từ muối hột khi làng tôi đã được du nhập kỹ thuật làm ruộng muối từ Phan Thiết và lò nấu được chụm bằng trấu làm cho công việc chế biến nầy đỡ vất vả hơn nhưng cũng phải liên tục ngày đêm. Muối hột và trấu đều mua thiếu được trả dần.

Muối bọt, thành phẩm đó phần lớn bán chịu cho đồng bào vừa di cư vào Nam, họ dùng trong khâu sản xuất mắm tôm, mắm ruốc (cho đến năm 1960 họ rời đi nơi khác vì cuộc sống đe dọa), mọi việc thiếu chịu vần lân dây chuyền như vậy dựa vào lòng tin lẫn nhau.

Ngoài việc đã có đủ lúa ăn, "kinh tế phụ" gia đình tôi như thế đó!

Sau khi Ba tôi mất, đáng lẽ tôi đã phải bỏ học, chuyện đó ắt phải vậy và tôi cũng sẵn sàng! Hàng xóm láng giềng và nhất là bên phía nội tôi khuyên Má tôi để tôi ở nhà phụ giúp gia đình: Lấy Giạ Ðong Lúa, Không Ai Lấy Giạ Ðong Chữ

Vâng, chính lời khuyên ngàn vàng ấy Má tôi nhất quyết hy sinh thêm nữa cho tôi theo đuổi việc học cho đến hết bậc đệ nhất cấp theo suy tính của Người.

Phải hiểu điều kiện sinh sống ngày đó ở nông thôn mới thấy hết gánh nặng trĩu vai của Má tôi vừa tự chất thêm lên cho mình.

Tôi lại đến trường lòng ngổn ngang không tả xiết!... Tôi đã chiến đấu không kém phần dũng cảm bên cạnh các bạn đồng song có cuộc sống an lành hơn tôi trong nhiều năm dài, tôi cho là thế!

Ðứng nhìn mặt đất tuyết phủ trắng, nhìn từng đống tuyết lem luốc bị ủi vào xó góc bãi đậu xe, tôi thường so sánh với màu muối bọt và muối hột thuở nào với nhà tôi đứng cạnh. Nàng hiểu tôi hơn tất cả, đã đi bên tôi suốt bốn mươi năm rồi.

Thân Phụ nàng, một vị viên ngoại đã thi ân giúp tôi theo học được năm cuối cùng bậc trung học, mức thang chót tôi cơ hồ không với tới... Nàng chẳng khác là bao nấc thang tiểu thơ cao thẳm về một bên ...

Trong trí tưởng hồ như Ba Má tôi mờ mờ mỉm cười nơi phía an nhiên...

Xin đời đời nhớ ơn! và tôi đã đến!

Tôi còn nhớ rõ lắm, lần đầu tiên bước lên bục giảng ở một tư thục, nơi học sinh không đồng phục, một thứ biểu tượng của kỷ luật mà tôi chỉ mới rời bỏ tháng trước đây.

Tôi bắt đầu nghiệp dĩ bằng bài muối Clorua Natri: NaCl


NhàQuê 2005

Văn006- Bác Nông Phu

Những "ngôi trường xưa Em học"




Đoản 6: Bác Nông Phu


Ðời Bác chưa biết Sài Gòn, Bác chẳng có việc gì để tới chốn Trường An đó. Tuy thế Bác không như phần nhiều hàng xóm láng giềng quanh năm ôm khư khư vạt lúa mùa, chưa đi xa hơn các làng lân cận. Bác đôi lần tới thị thành tỉnh lỵ đó chứ!


Dù ít ỏi vậy mà Bác vẫn đến đúng nơi đúng chỗ. Bác dắt con lần đầu tiên của cả hai hành hương thánh địa Cao Ðài, viếng tịnh xá nơi Ðức Lý Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập tịnh, rồi kế nữa khi Ngài qui tiên.

Lần đứng trước Chánh Án Tòa Hòa Giải Rộng Quyền Bến Tre tuyên thệ làm thế vì khai sanh cho con, qua đó Bác đã ký gởi ước vọng tỏa mát tựa bóng mây, tấm lòng người cha mong đứa bé sau nầy thoát khỏi vùng bao đời tăm tối. Không có lần đó một mảnh đời riêng đã rẽ đi hướng khác.

Thằng bé nhớ mãi ngày Bác đong đưa con cúi bện rơm, khói không tan được trong lớp sương dày đặc, vẽ thành vệt dài dọc theo con đường băng qua cánh đồng rộng dẫn về hướng Tây.

Vài giờ nữa mặt trời sẽ lên từ phía sau lưng; Cha con vượt ngang khoảng đêm sắp tàn, đến sớm ngồi chờ trong sân Trường Tiểu Học Bổ Túc Ba Tri ngày đầu tiên của niên khóa, nơi ấy cũng có lác đác vài cha mẹ dẫn con từ các xã xa tới.

Mãi tới học trò đã đâu đó vô lớp rồi, ông Ðốc Học Huỳnh Văn Chưng mới giải quyết đến nhóm người ngồi chờ.Ông nhìn thằng bé nhỏ xíu nghi ngờ không biết Nó đủ sức học nổi lớp nhì, lớp moyen hay không? Thằng bé gan dạ dám trình Ông tất cả bài thi đều đạt điểm cao.

Thế rồi mọi chuyện cũng qua, thằng bé được xếp vô lớp nhì F chưa có thầy cô nào chánh thức phụ trách, quý thầy thay phiên dạy tạm hàng ngày trong mấy tháng liền.

Trong ba dãy trường, chỉ dãy lớp của nó lợp lá, phòng học có lần làm phòng bỏ thăm, trong xó góc Nó thấy được hàng đống hình Ðức Quốc Trưởng in sẳn mặt bị gạch tréo.Ngài xấu xí quá nhiều so với hình chính Ngài ngự trên giấy bạc đang lưu hành. Vị Vua mới không long bào, nguyên là vị tể tướng từng mấy lần quì nhận tước đã soán ngôi Ngài qua ấy...

Ông Hiệu Trưởng đã sửng sốt khi đến lớp nhất D công bố và nhìn mặt thằng bé "Thủ Khoa". Ông ngỡ rằng Nó ngồi đâu cuối lớp, ai dè Nó đứng dậy từ bàn đầu Ông không hay.

Từ đó thằng bé được cả trường biết mặt, thầy cô nhớ tên dù năm trước Nó cũng đã một lần lảnh thưởng nhất lớp. Lần nầy Nó gom hết ba phần: nhất mỗi lớp, phần thưởng Tổng Thống và phần thưởng đặc biệt do một người địa phương có phương vị gần như thành viên Nội Các, gởi tặng cho học sinh đứng nhất qua kỳ thi riêng của tất cả học sinh được xếp nhất nhì ba trong mỗi lớp.

Phần thưởng đặt ra lần đầu tiên và có nhiều sách quý, đến ông Hiệu Trưởng phải nhắn thằng bé đem cho ông mượn đọc trong một thời gian, nhiều quyển còn bút tích ghi chú của ông.

Bác nông phu chân đất thật sự xúc động trong số khách dự lễ phát thưởng năm ấy, lần đầu tiên được danh dự nhận thơ mời. Cả hội trường ít nhất ba lần vỗ tay, nhìn thằng bé lên nhận thưởng rồi nhìn người cha; Bác nông phu áo vải ngồi lạc chung quanh những lụa là.

Bác nông phu thân phụ tôi, Ba tôi đó!

Trong tiềm ẩn Người có tất cả những đặc điểm anh hùng mà tôi tôn kính. Lần hãnh diện tôi mang lại cho Người chưa thấm vào đâu so với công mà tôi năm dài tháng rộng được hưởng dưới bóng mát mênh mông của Người.


NhàQuê 2005

Văn005- Vượt Cánh Đồng Ma



Những "ngôi trường xưa Em học"









Ðoản 5: Vượt Cánh Ðồng Ma

Thế rồi tôi cũng học hết lớp tư, từ nhà tôi đến trường Tổng, trường dạy tới lớp ba, Trường Sơ Học Xã Diệu không xa lắm đi về hướng Quận.Trường có hai phòng học vách ngăn bằng lá nằm dọc theo tỉnh lộ 26 bên ngoài vòng rào bót có cả nhà lồng chợ.


Mấy đứa bàn chót có thể thò tay qua chỗ rách khều ghẹo với mấy đứa lớp bên kia, có lần tôi bị méc và bị thầy đòn vì trò nghịch ngợm đó: Tôi lọt bẫy vì chúng quấy tôi trước, đến khi tôi thò qua thì chúng hè nhau giữ chặt tay tôi lại.

Trường nào cũng vậy, vẫn theo phong tục con gái ngồi hết mấy bàn đầu, vẫn theo truyền thống ngoại giao khép kín giữa trai gái cùng lớp, lằn ranh phân biệt ấy chưa bên nào vi phạm, điểm thấy rõ nhất là phía gái đã bắt đầu mang theo và ăn lén xoài ổi, kẹo bòn bon trong lớp mà không biết hối lộ bên trai chút nào, trả lễ chúng tôi cũng chẳng nương tay nên thỉnh thoảng "giới thiệu" các cô nàng tình nguyện trả bài lúc mấy trự chưa kịp nuốt hết, lắc lư! Họ gọi chúng tôi là Ðồ Quỷ từ đó.

Trong lớp tôi có nhiều đứa là con các viên chức địa phương, họ thường chểnh mảng bài vở, nhưng thầy cũng "không nỡ" nặng tay.
Bọn trai chúng tôi tiến tới giai đoạn cởi mở rủ bạn bè về nhà ăn cơm có gì ăn nấy, xong tắm ao tắm đìa, trèo cây hái trái...
Ngôi trường qui tụ đủ học sinh các xã chung quanh, do nền ngoại giao phát triển đó nên chúng tôi thông thuộc mọi lối đi ngang đi tắt trong vùng.

Chỉ trong gần một năm lớp ba, chúng tôi học tới ba thầy khác nhau vì lần lượt mấy thầy bị gọi đi lính, sau nầy đọ lại với lịch sử đó là những năm chiến tranh Việt Pháp đi vào giai đoạn kết thúc (1953-1954).

Do vô tư của tuổi trẻ chúng tôi chưa có mảy may nào quan tâm tới thời cuộc, vẫn thả dòng vui chơi học hành theo ngày tháng đi qua.

Ðã xong hai kỳ thi xét lên lớp , một biến cố xảy ra cắt ngang nếp sống đều đặn thường nhật của tôi: Anh tôi trốn lính, mấy ngày sau đó anh đi tu lánh nạn.

Ông Cai Tổng hay dẫn đám lính đốt nhà những gia đình có người đào ngũ, có khi bắn giết cả nhà nếu người trốn mang theo vũ khí hay gây thiệt hại; Gia đình Ba Má Anh Chị Em tôi tức tốc rời bỏ ngôi nhà êm ấm, có giàn bầu tự tay tôi trồng chăm bón đang trĩu quả, trốn đến cuối làng gần rừng làm chòi sống tạm gần như màn trời chiếu đất mấy ngày đầu; Khổ nào cho xiết!

Mươi ngày sau tình hình lắng dịu, Ba xin Bác tôi một nền nhà cho gia đình trú ngụ vẫn cuối làng, xa nơi nhà chưa dám trở về của tôi. Má tôi lại dẫn tôi qua xã khác xin học lớp ba với người bác họ: Thầy Tô Văn On.

Mỗi sáng tôi đi ngược hướng mặt trời mọc băng qua cánh đồng rộng đến trường Vĩnh Hòa có cây dúi cao trước cửa lớp, nơi ấy tôi có nhiều bạn mới chia phe bắn u du giữa hai buổi học sáng chiều, lần cuối cùng thằng Tín thọ tiển nơi mắt và trò chiến tranh nầy đi vào dĩ vãng chúng tôi.
Mốc thời gian được nhắc lại cả Niêm và tôi nhận ra nhau có thời học chung lớp từ hồi nhỏ, tôi học ở đó chỉ có mấy tuần lễ cuối niên học.

Tan học buổi chiều tôi lại đi ngược hướng mặt trời, băng qua cánh đồng ban sáng nổi tiếng ma, nhất là ngang đám cây chùm quân, nơi nghe đồn có người bị ma giấu cho ăn đất sét, qua đó đi càng lẹ tôi nghe hình như có người đang đuổi theo.

Thời gian cuối năm lớp ba ấy tôi hai lượt đi về, ánh nắng sau lưng, tôi đuổi theo bóng của tôi đang đỗ dài phía trước như đuổi theo tương lai một cách vất vả nhưng không kém phần bền chí.



Con đường tôi qua không đoạn nào bằng phẳng cả!

NhàQuê June 24, 2005



Văn004- Theo Cánh Chim Bay


Những "ngôi trường xưa Em học"






Ðoản 4: Cánh Chim Bay


Như sự giã từ trong âm thầm trước chuyến đi xa, tôi làm người say ghé những chỗ thân quen nói miên man chuyện trên trời dưới đất, mưa nắng, mùa màng...tất cả những thứ ấy và nhiều hơn nữa đã đóng gói vào một góc hồn tôi trong số hành lý không thể nào đong đếm được, có cái cùng có thứ chỉ riêng: Chúng là Quê Hương bây giờ tôi ngàn dặm.

Tôi đi lại đoạn tỉnh lộ 26, có cầu Bà Hiền bắt ngang con rạch tưới ngọt cánh đồng chỉ có vụ mùa. Những tháng nát rạ chờ mùa vụ mới, đám trẻ chúng tôi và xóm bên kia dàn trận đánh nhau chọi bùn chí chóe hai bên bờ rạch, ngay cả đứa ốm yếu cũng góp phần xắn bùn tiếp tế hay giữ quần áo, cặp vở cho các tráng sĩ ra trận được an tâm.

Trận đánh lần sau mãnh liệt hơn lần trước, hai bên tìm cách qua sông chọc thủng phòng tuyến của nhau, bắt tù binh trát bùn, trấn nước...Những con người dũng cảm ngày nào đã trôi theo dòng thời gian và hai bờ cuộc chiến có thật, cuộc chiến kết thúc bi thảm không như...

Từ chỗ trống trải nhìn xuyên ruộng rẫy thấy được bến Ðường Tắt, nơi đó cùng các bạn trai khác, tôi đã phụ vác cây rừng vừa sức mình về làm vách cho trường mới cất chưa quá hai trăm thước gần nhà tôi.

Tôi nhớ hoài bữa cơm canh mướp tép rang ngon chi lạ ở nhà thầy sau buổi phụ vác cây ấy. Thầy vai em trong họ hàng, nhưng không vì thế mà được thiên vị.

Lớp tư thuở đó có vài bạn học chung vai cô chú tôi, cũng có mấy bạn vài năm sau có vợ lấy chồng, mấy bạn gái ngồi các bàn trước, lưng họ che chắn làm tôi vất vả phải đứng lên đọc chữ trên bảng rồi ngồi xuống chép, khi họ dựa vào bàn sau cũng làm chúng tôi khốn đốn, nét chữ răng cưa.

Gần cuối năm thầy bỏ đi kháng chiến thỉnh thoảng thầy ghé nhà thăm Ba Má và hỏi thăm sự học hành của tôi.

Lâu sau trong trận đánh nào đó thầy tôi, viên Huyện Ðội Trưởng đã hy sinh cho lý tưởng của mình: Vĩnh biệt thầy Nguyễn Tấn Hồng!

Tôi lại hằng ngày qua cây cầu ván không lan can trên tỉnh lộ đến học tiếp ở trường "Nhà Việc Cháy".

Trường gần công sở xã, nơi người dân thiếu thuế, thiếu xâu bị bắt "đóng trăn". Cái Nhà Việc được cất lại trên nền công sở cũ đã bị thiêu hủy thời Nhật Ðảo Chánh.

Gần như những bạn trường ấy không nhớ gì khi tôi nhắc có lần tôi đã học chung với họ, vì tôi đến đó vài tháng cuối niên khóa. Không biết tôi có được kể là cựu học sinh trường sơ học Tân Thủy không nhỉ? Xin cho tôi với chứ! .......

Vào mùa vụ, sau buổi học tôi theo Ba Má sang bên kia rạch, đi phụ làm cỏ, bè dăm mạ, ôm đất đắp bờ ...
Chiều nào bầy cò trắng cũng bay khoan thai về hướng rừng xa, chốc sau đám le le rợp trời diễn tập đội hình, khi bay chung khi tách riêng, đổi hướng rồi lại nhập vào.

Không nhớ ngày đó tôi nghĩ gì khi ngắm nhìn chúng mà giờ nầy tôi là cánh chim lìa đàn bay đi. ./.


NhàQuê June 16, 2005




(Theo Cánh Chim Bay - Thơ: NhàQuê; Nhac:Thanh Ngọc) - Thân tặng nhà thơ NhàQuê


Theo Cánh Chim Bay

Có một dòng sông chảy tận đây
Trong tôi tưởng nhớ suốt từng ngày
Ra đi vẫy biệt lòng đau cắt
Gởi lại âm thầm dạ xát xay
Xứ lạ luôn dành nguyên góc nhỏ
Quê xa vẫn cất trọn tim nầy
Nghe ai nhắc đến tên dưng bỗng
Muốn được thành chim chớp cánh bay

Bay qua chốn cũ xóm nhà tôi
Nén những bâng khuâng cố tưởng hồi
Cổ Thụ vươn cao giờ hạ đốn
Đình xưa bóng rợp trước đùa chơi
Trông theo dáng nhỏ vừa tan học
Thấy lại y nguyên đủ khoảng đời
Ước được sau cùng nương cánh giạt
Lần nhìn trước lúc biệt xa khơi

NhàQuê

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2011

Văn003- Qua Đồi Cát Nóng



Những "ngôi trường xưa Em học"







Đoản3-Qua Ðồi Cát Nóng


Vào mùa nắng, các làng ven biển quê tôi có thể nói gọn không ai muốn bước chân ra đường. Sức nóng làm đôi mắt lúc nào cũng chực khép vào giấc ngủ nặng nề nhơm nhớp mồ hôi đang xô tới; Tôi thằng bé đi học về dưới từng hạt nắng bốc lửa ấy!


Anh Mười và anh Út mặc áo dài trắng khăn đóng đen dạy học công quả cho chùa, chúng tôi học trong ngôi trường lợp lá mới cất theo chiều dọc con đường đi, mấy cây cột còn mùi cây rừng chưa khô hẳn, chưa tróc hết vỏ.

Trường mới của tôi bên trong rào của thánh thất Cao Ðài Thiên Tiên, các cơ sở phụ thuộc của chùa kể cả phòng thuốc nam làm thành các dãy tách biệt sau ngôi chánh điện nguy nga mái ngói, có hai tháp cao phía trước hình dáng quen thuộc như những chùa Cao Ðài trông thấy đó đây, chúng tôi thường gọi hai tháp ấy là lầu chuông lầu trống. Các loại cây, rễ, lá có thể làm thuốc thường được bọn học trò chúng tôi mang tới hiến, góp phần công quả và có lúc chúng tôi bỏ lớp vụt ra phụ khiêng, kéo các đệm, nia thuốc đang phơi khi cơn mưa đột nhiên ập nhanh đến.

Trường gần ranh giới làng tôi với làng kế cận: Thuộc làng bên. Tôi lại có thêm bạn mới, nhiều đứa sau nầy cùng tôi ra trường Tổng, nhưng trong những ngày nầy chúng không về cùng đường với tôi, vì tôi từ làng khác tới học nhờ. Sau mấy bài thử sức, tôi theo các bạn mới không vất vả gì.

Thế nhưng đến khi thầy cho về là lúc trí óc tôi phải hoạt động căng thẳng, nghĩ cách qua đồi, qua nổng cát nóng hừng hực, con đường duy nhất phải vượt qua, không cách nào khác. Trong lúc nổng cát dường như thu gom hết sức nóng từ mặt trời lên đến giờ, đem chúng trải dọc lối về của tôi.

Tôi nhẩm tính từ đám cỏ khô nầy đến đám gần nhất xem có thể chạy nổi một mạch không, nhẩm tính những đám cỏ nào còn sót lại chưa gãy rụm mấy ngày trước, lúc tôi nhào lên đứng bằng một bàn chân, bàn chân kia ghé tạm lên trên chờ đổi thế cho nhau, đến khi cả hai nguội để có thể chạy nhanh qua “đoạn đường chiến binh” kế tiếp.

Ðường đi dọc lưng đồi, hai bên lối đi cây xương rồng gai nhọn tua tủa còn sống nổi, nhưng xem ra chúng cũng bệ rạc, xen kẽ vài đám gò mả, nơi đó không có loại cây có khía nhiều gai ấy, đám mả còn chút ít cỏ khô cho chỗ đứng tạm.

Xa dưới triền đồi, mấy chòm tre gai mốc thít như ngủ gục, như trôi trên làn sức nóng chập chờn. Mặt trời cao vút bên trên mà sao sức nóng phả khí thế đáng sợ!

Phải chạy năm hơi mới tới cây keo già không còn cành nào phía đường đi, tàng lá đều nghiêng về một bên phủ kín cái giếng lạn chứa tạp nham đủ loại bị gió cuốn tới.

Ðứng trên rễ cây đảo mắt xem chừng trên ấy nghe nói thỉnh thoảng có bà mẹ xỏa tóc nằm võng ru con.

Con tắc kè trong bọng cây không biết bao lớn, cất tiếng đến giật mình, tùng dấu hù dọa thằng bé, thúc nó bỏ chạy tiếp, vượt qua đám duối tháng trước còn rậm rạp, giờ xơ xác, bên trong nhiều lúc có ma chọi đất ra, người gan dạ dám lận theo mấy miếng gạch vụn chọi lại thì nghe tiếng ma bỏ chạy.

Cuối cùng tôi cũng nghĩ ra được miếng mo cau hay “thịnh soạn” hơn là một hộp giấy dày làm cứu tinh đem theo, khi không còn bụi cỏ khô nào.

Cơn mưa đầu mùa ập xuống, cũng chỉ làm đồi nổng cát phủ được lớp da ướt bốc khói râm rức, bên dưới lớp da ấy khi vít thử chân, lớp cát khô quánh vẫn đang nằm thách thức.


Ngôi trường thứ hai tôi đấy! Không có con chữ, phép tính nào mà tôi không đổi bằng gót chân mỗi ngày một chai dày thêm.

NhàQuê June 01, 2005


Con Lộ Đất

Em kể lại tôi nghe
Con đường xưa bây giờ tráng nhựa
Vẫn vắt ngang qua mấy ấp quê mình
Những cây cao cây còn cây đà đốn
Nhìn lạ làm sao!

Trong ký ức một mình tưởng lại
Con đường làng cát nóng vuột da
Tôi thằng bé chân trần đi học
Băng qua nổng cao khổ ơi là
Chạy từ đoạn một

Đầu trên kia có miễu Bà Bèo
Phía nọ giáp làng bên Giồng Nần, Đục Mộ
Người ở xa biết làm sao nhớ
Riêng tôi quen như từng ngón tay mình
Chia phe phục kích

Đi học sớm chun vô bụi núp
Đợi tụi nó ngang nhảy ra hù
Mới vô trường đà trèo lên một bậc
Sách chẳng nói nhất quỉ nhì ma đó ư
Đường thêm ma nữa

Con ma giờ đây nhớ thương đường cũ
Đêm chiêm bao đi lại bao lần
Vẫn y nguyền từng chùm cây dại
Nhàn hạ trổ hoa đâu chờ Xuân

Tôi thằng bé chân trần
Ước bỗng làm hạt cát!!

NhàQuê 2005

Văn002- Đình Làng


Những "ngôi trường xưa Em học"






Đoản2- Ðình Làng


Hai đình, bốn miễu và một lăng của làng tôi năm nào cũng có cúng kỳ yên, vía hay tương tự, những năm đặc biệt trúng mùa bao giờ cũng có rước hát bội về ít nhất là ba đêm diễn, đoàn hát xong nơi nầy dọn tiếp qua nơi khác; Ðó là dịp hẹn hò của trai gái làng quê tôi đang mùa đồng khô, trăng tỏ, tương đối rảnh rỗi trước mùa vụ mới.

Từ nhà tôi qua khỏi Cổ Thụ không xa, ngôi đình Tân Hòa mái ngói âm dương, cổng dáng hình lăng miếu, hai cây dương hai bên cao không đều nhau có lẽ một cây được trồng lại sau.

Đình tọa lạc trên phần đất độ hơn hai mẫu tây, có mấy cây sao thẳng hàng còn lại là vú sữa, gia đình Ông Từ chăm sóc quét dọn đình cũng được dành cho một phần vừa ở, vừa trồng trầu.

Không ai gọi tên đình Tân Hòa, thậm chí có người không biết; Ðó là trường vỡ lòng đầu đời của tôi: Ðình làng Tân Thủy.

Một buổi sáng tôi mặc quần áo mới chẳng khác nào ngày Tết, ôm cặp đệm cũng mới màu chiếu trơn, có viền bìa vải bông cho đừng vuột chỉ may, trong đó có nhiều thứ Ba Má tôi mua cho và dặn tên từng món, có vài món hơi lạ tôi chưa biết dùng để làm gì; Tuy nhiên tôi cũng trân trọng xếp chúng gọn gàng trong ấy. Ngày hôm trước Má tôi nấu chè cúng vái, cầu cho tôi học sáng láng, ăn chè xong tôi kiểm lại đồ đạc mấy lần sợ có ai mở ra coi thử làm lệch thứ tự theo ý tôi, tay kia tôi xách bình mực nâu đi theo Má: Tôi đi học không khóc như những đứa khác, trước khi đi tôi sợ Má quẹt lọ lên trán xin phép Ông Táo như những lần cũng đi hướng ấy về quê ngoại đám giỗ. Không, lần nầy Má tha!

Mấy đứa khác gặp trên đường không có vẻ lo âu như tôi, chúng đi một mình mà còn nhìn tôi chế nhạo, học trò mới: dốt!

Má nói chuyện với chú sáu Niên gì đó, Chú ghi ghi chép chép, tôi đứng bên cạnh có khi tôi nhìn xuống quyển sổ Chú ghi, có lúc tôi nhìn đám đông xếp ngồi từng nhúm đang xù xì to nhỏ nhau.
Chú ngưng viết, nhịp thước mấy lần lên bàn của Chú, tụi nó nín khe trở lại.

Mọi việc kết thúc khi Má dặn: Nó làm biếng Chú cứ việc uýnh! Mấy đứa dưới ra hiệu roi mây nẹt đít tôi thấy rõ ràng mấy giây trước đây khi tôi nhìn hướng chúng, làm tôi cũng hơi chùng xuống đôi chút.

Ðến khi Chú chỉ chỗ ngồi cho tôi, tụi nó lấn còn có chút xíu, tôi đặt đít vào như phải trướng lấn lại cả hai phía: lưỡng đầu thọ địch.
Trên mặt bàn hai đứa hai bên khuỳnh tay, cùi chỏ gần đụng nhau chừa chỗ nghiêng nghiêng vừa đủ tôi đặt bình mực, cặp tôi chỉ được ghé chút, còn phần dư phải tựa trên đầu gối.

Suốt buổi ấy sư phụ tôi chưa truyền phép mầu gì, quyển vở còn trắng tinh, bụng trống như lúc ra đi không chữ nào trong đó.

Lúc cho về tôi khoanh tay "Thưa thầy em về" như mọi đứa khác, từ nay tôi không gọi thầy tôi là chú nữa.

Má tôi qua khỏi Cổ thụ đôi chút đón tôi vinh qui, vì từ đoạn đó tới nhà tôi không có đứa nào cùng đường, chúng đã rẽ vào xóm trước khi.

Em tôi bỏ trò chơi bắn cu li một mình vừa một lúc làm hai vai, hai đối thủ. Em chạy lại chạm nhẹ tay tôi: Có gì hôn? Ý em tôi hỏi có bị đòn hay biến cố trọng đại nào không, tôi cười lắc đầu và nó an tâm hiểu rằng đi học là chuyện dễ dàng. Tôi giấu em cuộc chiến đấu từ cả hai cánh vừa qua của tôi.

Hai ông lấn tôi từ bữa sau trở đi dễ thương lạ, hai ổng nhường chỗ cho tôi thoái mái: Hai ông làm thầy kèm tôi; Làm thầy thì phải hy sinh chứ! Người lớn mà! Ðâu lại giành chỗ với trò hay ít ra là đàn em.

Thầy phóng mấy chữ cái trên tập bằng viết chì rồi hai thầy "lấn chỗ" chỉ tay vào chữ đọc trước tôi đọc theo kèm theo lời hăm dọa: Tụi tao đọc ba lần mà không đọc lại được như tụi tao hồi trước là đuổi học.

Tôi hiểu hai thầy xưa kia thông minh rất mực và nay có quyền tâu lại Thầy đuổi tôi.

May phước, sau lần thứ hai là tôi đi suông. Kế tiếp tôi còn được chừa chỗ rộng hơn, không bị thình lình đụng tay khi tôi dùng viết mực đồ theo lằn chì mấy chữ cái thầy phóng.

Vần xuôi: Bê a ba, bê á bá ...em mờ a ma, em mờ á má ... tôi thanh toán gọn mấy ngày kế tiếp và thêm ít ngày nữa tôi xong phần vần xuôi, phải từ giã hai thầy "lấn" để qua nhóm vần ngược ngồi góc bên kia. Hai thầy cũng tự hào dạy giỏi.


Tôi không nhớ rõ tôi học ở đó bao lâu nhưng tôi biết rằng tôi đã tiến qua giai đoạn tự chép theo bài thầy biên trên bảng vuông vức màu xám treo trên tường và làm toán cộng trừ không số giữ.

Thời gian đó tôi lần lượt được chuyển học chung nhiều nhóm khác nhau ngồi riêng góc tùy theo trình độ tôi tiến lên được, thuở ấy chúng tôi gọi là được lên lớp.

Thầy tôi bị ruồng bắt lính trong một đêm nào. Không còn ai thay thế dạy cái lớp học đủ mọi trình độ đó.

Một buổi sáng u buồn chúng tôi ra về, giã từ cái nhà đãi ăn của ngôi đình làng dùng làm trường lớp đầu đời của tôi và có lẽ cũng của các bạn cùng thuở.

Ngôi trường đình có cánh đồng rộng bên kia đường trước cổng chúng tôi cho diều hát vi vu mùa khô, trong lớp chúng tôi ngồi lắng nghe đoán biết được nó đang lên cao hay lượn xuống, tàn cây vú sữa cho chúng tôi bóng mát nô đùa mỗi lúc được ra chơi.

Tôi thấy mấy đứa con gái thường nhảy dây, đánh thẻ, ít khi thuộc bài lại khóc nhiều hơn hết trong buổi sáng lạc thầy đó.


Ít lâu sau Thầy tôi trốn về được. Ngang qua nhà, thấy Má tôi, Thầy nói vọng vào: Tui mới về nè chị Tư !
Má tôi dừng Thầy lại nói chuyện mấy câu, tôi chạy ra mừng, ngỡ thầy vài ngày nữa sẽ dạy lại.

Không, thầy tôi vĩnh viễn bỏ thiên chức khai hoang. Vĩnh biệt Thầy!


NhàQuê May 21,2005


Đình Làng, Ngôi Trường Đầu Đời

Mái vẫn rêu phong trước sau êm vắng
Uy nghi ngầm phảng phất nét hiển linh
Sắc vua phong thuở trước cẩn cung nghinh
Ơn đức bổn Thần tiếp nhau truyền rạng

Nhớ Má cúng cầu mong tôi sáng láng
Trước hôm nao dẫn đến gặp thầy xưa
Đứng khoanh tay, lắng tiếng dưới hăm đưa
Nhìn khúc roi xơ, lòng mình tự vấn

Rồi chút nữa đây “mấy ông” xúm lấn
Ngơ ngác trùng vây lọt thỏm giữa lòng
Xóm dưới đầu trên có vẻ đợi trông
Chờ thầy xếp cho tôi cùng chung dãy

Tàng lá xum xuê cánh tay rộng trải
Bóng mát rợp che trong ngõ lối ngoài
Nhớ buổi vỡ lòng… giờ tít chân mây
Mất dấu Trường xưa, Đình ngùi thế sự

NhàQuê


Bên Kia Đình Làng

Hai nhành rẽ phướng giữa tầng bay
Uống gió no đầy túy lúy say
Vụt thoắt lên cao tìm hướng núi
Vòng vèo lượn xuống bỡn vòm cây
Hồ pha giấy phất diều đâu sợ
Nhợ mảnh sườn oằn sáo lắc lay
Nhắc đến nơi xưa vui thú ấy
Trường ĐÌNH chạnh nhớ khóe mi cay

NhàQuê

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

Văn001- Cổ Thụ



Những "ngôi trường xưa Em học"








Đoản1- Cổ Thụ

Trừ những khi mây xuống thả vòi là đà thấp hơn ngọn cây, báo hiệu cơn mưa ập đến. Còn không, từ bên nầy của cánh đồng rộng tôi trông thấy làng Tân Thủy của tôi mờ mờ màu xanh núi, giăng ngang tựa tranh vẽ, bầu trời nhạt hơn phía sau.

Trên con đường dẫn từ quận lỵ Ba Tri về hướng Ðông băng qua cánh đồng ấy, tôi về trễ hơn các bạn khác mỗi ngày: Tôi đi bộ!

Khi bắt đầu vượt đoạn đường tôi luôn nhìn Cổ Thụ làng tôi vấn kế, Cổ Thụ nhìn thằng bé đi học về mỉm cười lúc trong lòng tôi vẫn còn rộn rã lời khen của thầy, âm vang chưa tan hết. Những lúc tôi đi đầu cúi thấp vô hồn chắc Cổ Thụ cũng rưng rưng.

Có khi tôi phải đứng chờ có người đi cùng mới dám vượt qua khu trâm bầu của chòm Ðìa Ðôi gần khoảng giữa, đám trâu đen, trâu cò đang cằn từng cọng cỏ gần đó cho biết rằng mấy đứa chăn lẩn khuất đâu đấy, sẵn sàng nhảy ra bắt nạt tôi: Thằng bé cũng đã giữ trâu cho người chú không con trai của mình, tựa chúng, nhưng tôi không hung hãn như.
Dù không nhìn thấy trâu, qua chòm Ðìa Ðôi tôi vẫn chạy hết tốc lực sau đó vừa đi vừa thở như người tập thể dục bất đắc dĩ; Những lần như vậy Cổ Thụ nhìn tôi dáng có chút đăm chiêu, nhưng cũng có vẻ ngầm khuyến khích.

Cổ Thụ đứng ven con lộ đất dẫn đến cuối làng, gần đoạn khởi hành hơn. Phải nói rằng con lộ đất đi dưới chân Cổ Thụ mới đúng, vì anh chàng cát bủng nầy né rẽ đi hướng khác mấy lần trong thời loạn lạc, nhường chỗ cho địa đạo, giao thông hào; Nhà tôi không xa nơi ấy.

Không ai biết Cổ Thụ bao nhiêu tuổi, Ba Má tôi nói hồi đó giờ vẫn vậy, không lớn thêm cũng không có dấu hiệu gì già cỗi. Có thể từ xa xưa lắm những hạt mầm bị sóng triều xô giạt vào cồn cát vừa nhô lên khỏi mặt biển đôi chút, bám được rễ bắt đầu sự sống: Cuối cùng chỉ một cây non thoát được các đợt tất công liên tiếp của sóng triều.

Dấu chỉ bên dưới lớp đất nói rằng làng tôi là cồn cát càng ngày càng lấn biển ra xa. Khu rừng nước mặn mọc thêm dàn hàng ngang tiến về hướng Ðông lần sau khác lần thấy trước, củng cố thêm trong tôi lịch sử hình thành con giồng tên gọi Giồng Bông nơi tôi được sinh ra.
Cây xanh mơn mởn tín hiệu hứa hẹn về vùng đất tươi tốt, hấp dẫn nhóm người đầu tiên đến đây dựng lều cắm trại định cư ...

Theo Chúa Nguyễn "Nam Tiến" bằng cách nầy cách khác Tổ Tiên tôi xua dần lớp cư dân thời tiên khởi lập làng...Tôi, hậu duệ nhóm người lấn chiếm dựng nên quê tôi hiện giờ: Tôi nghĩ vậy!

Ðứng vươn cao, Cổ Thụ nhìn bao hưng phế đổi dời đời nầy qua đời khác: Ði xa Cổ Thụ đứng trông theo đến khi không còn chấm nhỏ, vui mừng gần như nhón gót cao thêm cho rõ, coi có đúng kẻ trở về đấy không.

Cổ Thụ hát reo bốn mùa gió lộng, ủ rũ u buồn vĩnh biệt mỗi lần đám tang đi qua dưới chân Người.
Lo âu cho kẻ ra khơi sinh nhai dạt trôi không trở lại...
Từng mắt lá Cổ Thụ như nghe, như thấy bao khắp và xúc cảm với từng hơi thở nhẹ của quê tôi.
Cổ Thụ chắc cũng vui mừng mùa bội thu, rầu rầu những năm sâu rầy phá hoại.

Gần giáp Tết, Cổ Thụ nhìn gió chướng từng cơn lọc qua khu rừng nước mặn, nhìn từng đợt sóng bổ ghềnh hùng hổ ập vào rồi lại kéo ra như muốn xô ngã khu rừng chông chênh đang cố ráng sức chống chọi, chơi vơi chao đảo như người chỉ còn có một chân phải trụ lưng vào cồn cát phía sau phụ lực.

Có lẽ Cổ Thụ cũng nhìn thấy thằng bé trùm kín chăn nhai trộm bánh phồng sống mới phơi một nắng, bị Má bắt gặp lôi ra rửa miệng giữ răng. Mật chiếc bánh nếp trôi ngọt ngào qua cổ cùng âm vang tiếng sóng bổ ghềnh như rượt đuổi nhau luồn dưới lòng đất, không những qua tai mà ngấm sâu đưa tôi vào giấc ngủ nhẹ nhàng không mộng mị: Tuổi thơ tôi đấy!

Rồi một ngày kia, đao phủ thủ nghiện rượu về từ hướng Bắc, chém nhát đầu tượng trưng làm hồn tôi, người vốn buộc phải câm: Ðau rướm!
Làng tôi nghèo đến độ cần gỗ để đóng vài chiếc bàn ghế học trò cho trẻ em thế sao! Không! Cổ Thụ là cây củ chi, mã tiền,... độc dược, vô dụng từ nhánh tới lá, thân cũng nguy cơ ngộ độc. Sao lại mang ra làm thế chứ!

Sau mấy ngày đau đớn Cổ Thụ gục ngã: Ðám chim chóc đủ màu đủ loại sống chung bao đời hốt hoảng vội vàng rời tổ, đậu nhờ những cây lân cận ngơ ngác đứng nhìn lại. Rồi như đồng loạt kêu lên ai oán cùng lúc Cổ Thụ đổ nhào, âm thanh như một chấn động khác biệt chưa lần nào nghe thấy. Ðám chim chưa muốn tản mác bay đi, đám chim mỗi lần đi qua tôi dừng lại nhìn lên, không còn sợ trên ấy có người khuất mặt như ngày xưa còn nhỏ chẳng khi nào.

Từ đó làng tôi không còn như ca dao, có lũy tre xanh, có cây cổ thụ.
Cổ Thụ làng tôi cao nhất trong vùng, cao hơn bất kỳ cổ thụ những nơi tôi đã đi qua. Không còn dấu mốc nào để dễ dàng nhận biết từ xa, rằng gần đó có ngôi nhà lợp lá: Ba Má Anh Chị Em tôi, cái chùm hạnh phúc ấy quây quần bên nhau một thời.

Làm làn khói thoát ra từ lò hỏa thiêu, tôi hòa tan vào mây phiêu du về bên ấy, biết tôi có còn nhận ra được chốn xưa không. Cổ Thụ còn đâu để cho tôi xin mây một lần xà xuống thấp. Tôi chẳng có chút nào so được con chim nhỏ nhất ngơ ngác rời tổ ngày nọ.


NhàQuê May 19, 2005

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

Thơ004- Tranh Cố Hương

Tranh Cố Hương

Làng quê ơi xin muôn vàn tạ lỗi
Chậm viết thành lời ca tụng cưu mang
Bởi dâu biển bủa sóng ...đời trôi giạt
Hai mươi năm còn chưa hết bàng hoàng

Chừng đã gói mang theo hầu đây đó
Giở ra nhìn ru nỗi nhớ chợt dâng
Mảng vô hình trong sâu từng thúc giục
Đưa quê xa vào cung bậc điệu vần

Con rạch nhỏ bao lần trầm tắm mát
Nước sữa nâu mùa ngọt những phù sa
Đậu chân lúa hóa thân đòng kết hạt
Độ vàng ươm cơn gió gợn la đà

Biển dẫu mặn vô vòng đành khuất phục
Trưa nắng hè hừng hực bốc hơi khô
Ai hiểu hết công nên viên muối trắng
Có phải đâu nước lã khuấy nên hồ

Trai gái quê nghèo da nâu chân đất
Guốc dép làm ngượng nghịu có đôi khi
Bẳng một dạo xóm trên và xóm dưới
Thành bà con chú bác thím cô dì

Cổ Thụ ngả hồn còn luôn phảng phất
Ngẩng đầu trông về phía biển xa xa
Đợi từ khơi từng đàn thuyền rẽ sóng
Vẻ no nê hướng về lại bến nhà

Như thế đó thật đơn sơ mộc mạc
Đã bao đời rất ít những đổi thay
Dù sống chỗ nhiều danh lam thắng cảnh
Tranh cố hương chấm phá đẹp khôn tày

NhàQuê Mar 17, 2010




Không Ảnh Nơi Quê Nhà: Ngã Ba TÂN BÌNH-TÂN THỦY-BA TRI-BẾN TRE

Thơ003- Gói Thuốc



Gói Thuốc

Buổi chiều im ắng chuông ai bấm
Một gói hộp vuông bưu điện giao
Địa chỉ quê nhà trên góc trái
Chưa mở gì trơn nước mắt trào

Sao không nghe lời anh căn dặn
Chẳng muốn lụy phiền thuở chân xa
Từ lúc xuống thuyền làm lá mục
Đã xác vô hồn xứ người ta

Một lần nói chuyện em gặng hỏi
Giấu quanh anh ngượng miệng nào quen
Bịnh căn chưa thấy đâu trầm trọng
Người thân lo lắng thiệt sanh phiền

Nhiều năm rồi đó cô mầy hởi
Một thân lo lắng phía nhà chồng
Giỗ quảy bên mình em xuôi ngược
Ngoại xa Bảo Thuận nội Giồng Bông

Sáng nay đi bộ như thường lệ
Lòng cứ miên man nghĩ kiếp người
Nỗi đau nhân thế còn dằng dặc
Sâu hoằn chưa có chút dịu nguôi

Em bám ruộng đồng theo cây lúa
Chân phèn dám lội tới kinh đô
Tấm áo quê mùa thương đứt ruột
Anh nghe trí tưởng cứ mơ hồ

Ốm đau tuổi tác lẽ thường tình
Có sinh có tử chuyện phân minh
Đời anh mang tiếng người ăn học
Đâu sánh lòng em tỏa hương quỳnh

Thuốc nầy chưa biết hiệu nghiệm không
Sao như hơi ấm khởi dậy lòng
Hạt thuốc hàm ân miền Đất Tổ
Nguyện cầu đã vượt biển mênh mông

Tên thuốc lạ tai xứ văn minh
Sâu trong tiềm ẩn những nghĩa tình
Cầm lên tưởng tượng đang qua rạch
Lội giữa đôi bờ kiếp nhân sinh

Nếu được tỉnh hồi vào lúc đó
Chống tay gượng sức thể như thường
Bốn phương trời đất anh thầm hứa
Tự trở quay đầu hướng cố hương

NhàQuê 2008

(Tặng bào muội Trần Thị Nhơn &
tế đệ Lê Văn O, Út O, Giồng Trôm Bến Tre)

Thơ002- Cậu Mầy


Cậu Mầy

Chị mồ côi mẹ
Ba chắp nối Má sanh tôi
Cùng lớn lên trong căn nhà chật chội
Nhưng thương yêu lại rộng khôn cùng

Ngày tôi về thăm
Chị kêu được Cậu Mầy rồi khóc mướt
Làm tôi cũng chẳng hơn gì
Đứa cháu đứng nhìn ông nội
Không giống thường khi

Chị cõng em và dắt tôi chạy giặc
Tận Bến Đường Tắt** bìa rừng
Ba Má còn ở trên đồng
Dặn trước cứ theo bà con mà trốn.
Nghe tiếng hú Cành-Nông
Đâu kể thân mình
Chị vội che hai em mếu khóc

Thời của chị đâu có trường mà học
Nên chi chị chưa khỏi i tờ
Chưa đọc thông vần ngược
Sách sử thường rất ít vần xuôi
Thế mà chị tôi
Suốt đời với tôi gương sách quý

Lâu lâu gởi tiền quà chị
Khi tôi về chị mở vẫn còn nguyên
Chị nói bên nây khi nào nhớ Cậu
Lấy ra coi rồi khóc hồi lâu
Chị còn hiểu xứ nầy:
Cậu Mầy không sống nổi đâu
Chị em mình xa nhau là phải

Đêm đêm chị van vái nguyện cầu
Bên xứ lạ em phật trời phò hộ
Huời đặng bằng an
Đừng rề rề như hồi nẵm
Thuốc Bắc thuốc Nam
Chị đi hốt mòn đàng
Tôi đầu cúi, ngậm ngùi
Nghe chị tôi, người dốt nói...

Ngày tiễn tôi chị biết Sài Gòn lần thứ nhất
Một bà già quệt nước mắt ngoài phòng cách ly
Tối hôm trước bữa ăn có người hầu rót nước
Chị ngại ngùng cứ khều hỏi người sắp đi
Tiện nghi nào cũng lạ ...

Thương chị quá, chị ơi

NhàQuê 2006

** Bến Đường Tắt: Bến ghe xuồng, có rạch nhỏ gần nhất thông ra biển.
Hiện vẫn còn, thuộc xã Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre.

Thơ001- Mộng & Thực



Mộng & Thực


Có lẽ ta già từ lâu lắm
Bởi yêu cốt cách của người xưa
Mở mắt ban mai đầy nắng mới
Khề khà rượu lạt những hôm mưa

Có ao nuôi cá vườn vừa đủ
Thả rong đâu đó mấy bầy gà
Ai nài hỏi mấy không hề bán
Bạn tới thăm chơi có gọi là

Xanh mướt chung quanh giậu tươi xanh
Dây leo bông tím cánh mong manh
Gió thoảng lung linh đàn bướm lượn
Bốn mùa cảnh sắc bốn mùa tranh

Cách không xa lắm phía sân sau
Rau diếp ngò hành chen chúc nhau
Bạc hà ớt sả cây lá quế
Nồi canh chín tới tỏa ngạt ngào

Bốn góc ta trồng cây bông sứ
Đêm đêm hương thoảng nhớ đường xưa
Một mai cuối hết vùi đâu đó
Còn thấy mùi thơm thuở đứng chờ

Lâu lâu ta cũng đi xuống chợ
Tréo ngoảy đợi đem tô cháo lòng
Rủng rỉnh "má mầy" cho dằn túi
Bạn bè hú hí quán vui đông

Nếu có đứa nào đi trước ta
Sá gì đây đó quãng đường xa
Nhang trầm quyện khói quanh di ảnh
Còn mất nhìn nhau chẳng khác là

Lẽ ra đơn giản chớ nào mơ
Tạo hóa định xong một ván cờ
Dù nay ta được nhiều hơn ước
Vẫn cảm trong lòng kẻ bơ vơ

NhàQuê. 09-09-2008





Visitor Map

web stats
Bản Đồ Hành Chánh Ba Tri
Photobucket Photobucket
Không Ảnh Thị Trấn Ba Tri
Photobucket
Photobucket