Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2015

HKO003- TÌNH NỘM




-TÌNH NỘM ------

Ta đứng chôn chân giữa chốn này...
Cũng quần cũng áo cũng roi cây....
Mênh mông lúa chín đầy hương thoảng
Bát ngát chim bầy chờ chực đây.
Cô lẽ ta ôm lòng quạnh vắng
Tình côi không dám tỏ cùng ai
Lúa vàng thôn nữ vui mùa mới
Đau đáu, duyên thầm ngơ ngẩn say.


-----OANH KIM ----

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Phân Ưu

www. bentrehome.net Nhận Được Tin:








Cụ




NGUYỄN VĂN THUẬN




Thân Phụ Của Cô LƯU THỊ CHIÊU (Hoa Chanh)



Vừa Mãn Phần Lúc 11:45 Ngày Mar 09, 2015



Hưởng Thọ 91 Tuổi








Hiện Quàn Tại BẾN LỨC - LONG AN



Di Quan & An Táng Lúc 08:00 Ngày Thứ Bảy, Mar 14, 2015



Tại Ấp HÒA CHÁNH, Xã SƠN HÒA, BẾN TRE








THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


- Cùng Tang Quyến -


- Cùng Armand & Cô Chiêu -



CẦU NGUYỆN HƯƠNG LINH BÁC AN VUI MIỀN LẠC PHÚC





Đồng Gởi Lời Phân Ưu Nầy Gồm Có:


www.bentrehome.net


Ô B. Trần Kim Quế, Cựu Hiệu Trưởng Trung Học Kiến Hòa


Cựu Hiệu Trưởng - Giáo Sư - Nhân Viên Trung Học Ba Tri


Cựu Học Sinh Trung Học Kiến Hòa & Trung Học Ba Tri


Thân Hữu Trong & Ngoài Nước:



Nhóm Chủ Trương, Quản Trị & Điều Hành BTH
Luân Tâm, Phan Hữu Dương-Đặng Thị Lộc, Trần Văn Thới, Trần Văn Thu,
Trần Bình Trọng, Nguyễn Ngọc Anh, Hồ Đắc Tấn-Nguyễn Diệu Phượng,
Chung Kim Ngân, Phạm Bạch Nga, Hoa Hạ, Dương Văn Tươi, ...




Điện Thoại: 072-3871-170

Thứ Tư, 4 tháng 3, 2015

LPH01- TỪ BI, KHO BÁU TRONG TÂM CHÚNG TA

Thay lời giới thiệu:
Lê Phương Hướng
Gởi về các em cựu học sinh Trường Trung Học Ba Tri, tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre), thế hệ U.60, đồng nghiệp và phụ huynh đã cưu mang tôi trong thời gian mà “ai chưa qua chưa phải là người”
• Tôi mới tập đánh máy nên dễ bị lỗi kỹ thuật,trí bị lão hóa nên chỉ còn nhớ nghĩa mà quên chữ, xin các bạn từ bi hỷ xả ,xin cảm ơn!



TỪ BI, KHO BÁU TRONG TÂM CHÚNG TA


*PHẦN THỨ NHẤT: KHÁI QUÁT*


Đạo Phật, nếu tóm lại một chữ, đó là chữ NHƯ (1); nếu hai chữ, đó là TỪ BI (“Phật chỉ có lòng TỪ BI chứ không có tâm gì khác ” – Hòa thượng Thích Trí Tịnh ghi lại lời của Phật - “Hương sen Vạn Đức”- trang 60 )

TỪ BI là tâm Phật, tức CHÂN TÁNH, nhất nguyên, nên không thể dùng ngôn ngữ nhị nguyên để lý giải, “Đạo khả đạo phi thường Đạo”. Tuy nhiên, qua kinh sách cũng như cuộc đời và đạo nghiệp của các vị chân tu, ta cũng có thể lĩnh hội được phần nào ý nghĩa và sự nhiệm mầu của TỪ BI trong đạo Phật.

1) TỪ BI CỦA THẾ GIAN: Do căn tính khác nhau mà TỪ BI của thế gian khác với TỪ BI của Phật. TỪ BI của con người là lòng thương xót, cứu giúp người đau khổ, hoạn nạn, nhưng ít nhiều còn vướng vào đối tượng (như phải là nghèo, hiền, đáng thương, chứ không cứu giúp kẻ gian ác…); vướng vào tham vi tế như mong cầu phước đức…Và khả năng con người có giới hạn, chỉ giúp đỡ trong một thời gian nhất định mà thôi .

2)TỪ BI CỦA PHẬT: là lòng xót thương vô hạn, cứu độ tất cả chúng sinh, không phân biệt, không còn thấy người cho, kẻ nhận. Và đặc biệt là giải thoát chúng sinh ra khỏi luân hồi lục đạo, về các cõi giới tốt đẹp để sớm thành Phật đạo.

TỪ BI của thế gian ví như những dòng sông nhỏ, có lúc đầy, lúc vơi, có khi khô kiệt, TỪ BI của Phật giống như biển cả mênh mông. Biển có bao giờ vơi !

A. TỪ BI LÀ SỰ NGHIỆP CỦA PHẬT VÀ BỒ TÁT

TỪ BI chính là BỒ ĐỀ TÂM. Hòa thượng Tuyên Hóa giảng: “BỒ ĐỀ TÂM có ba nghĩa: một là CHÂN TÁNH BỒ ĐỀ, tức PHẬT TÁNH; hai là THẬT TRÍ BỒ ĐỀ, tức TRÍ HUỆ BỒ ĐỀ; ba là PHƯƠNG TIỆN BỒ ĐỀ, tức phương tiện của những người sau khi chứng đắc, họ quan sát căn cơ, nghiệp lực của chúng sinh mà tìm phương cách thích hợp để giáo hóa (ba dạng BỒ ĐỀ chỉ là một)”(2).PHƯƠNG TIỆN BỒ ĐỀ là TỪ BI.

Ngay sau khi chứng đắc, Đức Phật Thích Ca liền khởi sự nghiệp TỪ BI để cứu độ chúng sinh. Bốn mươi chín năm ròng rã thuyết pháp, giúp chúng sinh vượt qua sông mê, bể khổ, trở về cố hương để tìm lại BẢN LAI DIỆN MỤC. Đức Phật A DI ĐÀ với bốn mưoi tám nguyện độ giúp chúng sinh về thế giới của Ngài, chấm dứt luân hồi sinh tử và tiếp tục tu hành cho đến khi thành Phật . Địa Tạng Vương Bồ Tát đã phát nguyện :

Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật
Chúng sinh độ tận, phương chứng BỒ ĐỀ

Hòa thượng Tuyên Hóa phát mười tám đại nguyện . Từ nguyện thứ nhất đến thứ chín, Ngài nguyện rằng nếu có vị từ hàng Bồ Tát cho đến địa ngục chưa thành Phật thì Ngài không thủ Chính Giác.

Địa ngục có bao giờ trống không, chúng sinh làm sao thành Phật hết, vì vậy sự nghiệp của Phật và Bồ Tát là đời đời, kiếp kiếp. Xét về mặt Lý thì Phật và Bồ Tát ở trong tâm ta, về mặt Sự thì các Ngài phân thân, ứng, hóa thân để độ khắp chúng sinh:

…Bạch hào uyển chuyển năm TU DI
Mắt biếc lắng trong bốn biển lớn
Vô số hóa Phật trong hào quang
Chúng hóa Bồ Tát cũng vô biên

Quan Thế Âm Bồ Tát tùy duyên, tùy thời mà ứng, hóa ra nhiều hình tướng (hữu hình và vô hình) như làm thân Phật, Thanh Văn, trời, người, A Tu La…

HT.Tuyên Hóa có lời nguyện thứ 13: “Nguyện phân chia tánh linh của con thành vô số nhập rộng khắp tâm chúng sinh nào không tin Phật pháp, làm cho họ đổi ác thành thiện, hối lỗi, ăn năn, làm một người mới biết quy y Tam Bảo, rốt ráo thành Phật ”.Và, Hòa thượng đã thành tựu ngay trong cuộc đời này. Trong tác phẩm “CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA”,Hòa Thượng đã hóa thân ra nhiều nhân vật để độ người . Xin tóm lược một câu chuyện kể ở trang 234 . Buổi sáng ,Hòa thượng bảo đệ tử rằng hôm nay, có một chú bé đến xin xuất gia, khi nào chú đến nhớ cho Ngài hay… 1giờ trưa, chú đến… Hòa thượng hỏi : “Tại sao chú muốn xuất gia ?” Chú đáp: “Nhà con ở cách xa nơi đây hơn1000 dặm, có một lúc con nằm mơ ba lần liên tiếp, đều mơ thấy có ông Hòa thượng mập, ổng nói nếu con muốn hết bịnh thì phải đến chùa Tam Duyên tìm thầy AnTừ, bái thầy làm sư phụ, xuất gia tu hành, tức sẽ hết bịnh ”. Hòa thượng nói với chú rằng ở đây không có thầy AnTừ (tên của HT.Tuyên Hóa ), chú quả quyết nói: “ Không thể có chuyện đó được, vừa bước vào chùa là con đã thấy có ông Hòa thượng mập …Chính ổng đã báo mộng cho con ba lần, bảo tới đây xuất gia mà”.

Ta Bà là cõi phàm thánh đồng cư, nên Phật và Bồ Tát luôn hiện hữu. Các Ngài hóa thân rất đa dạng: có khi đóng vai Đại sư như Ngài Vĩnh Minh là Đức Phật A Di Đà (3), Đại sư Ấn Quang là Đại Thế Chí Bồ Tát (4) ,HT.Tuyên Hóa là Bồ Tát (5)…;có khi nhập vai những nhân vật thế tục như học giả, cư sĩ, triết gia, nghệ sĩ, bác sĩ, nhà doanh nhiệp... Chúng ta không phải là Phật nên không thể nào biết được Bồ Tát tái sinh, nhưng do lòng tôn kính, ngưỡng mộ một số vị nào đó mà gọi họ là Bồ Tát như bác sĩ Quách Huệ Trân, một vị bác sĩ xả thân vì nghề nghiệp và Đạo Pháp, khó mà tìm ra một vị lương y thứ hai trên cõi đời này: cô không quan tâm đến hạnh phúc cho riêng mình, dù tuổi đời còn trẻ (như chuyện chồng con ), không quan tâm đến sức khỏe bản thân (bịnh nan y mà không biết ), vì lúc nào cũng nghĩ tới bệnh nhân và nhiều lần rơi lệ trước nỗi khổ đau của kiếp người !. Cô đã đem Phật Pháp đến cho họ rất đúng lúc (tức là khi mà người ta đã hiểu được lời Phật dạy“ sinh, bịnh, lão, tử là khổ”. Khi xuất gia, Ngài đã đem những câu chuyện thật, người thật kết thành một bài Pháp làm rung động lòng người, bài Pháp đó đã ngân lên thành“ LẮNG NGHE TIẾNG HÁT SÔNG HẰNG” như gởi cho đời một thông điệp về y đức, về phương pháp trị bịnh, phải kết hợp giữa y học và Phật Pháp. Y học trị được phần ngọn, Phật Pháp cứu được phần gốc, chuyển hóa được tâm thức, tâm thanh tịnh thì thân không bịnh. Ăn chay, làm việc thiện, niêm Phật, “Niệm Phật chuyển hóa được tế bào ung thư”…Bồ Tát là ai? Là người xả thân vì ĐạoPháp. Đơn giản vậy thôi, nhưng chỉ có Bồ Tát mới làm được .

Và,có khi Bồ Tát lại hóa thân thành những nhân vật mà ta không thể ngờ tới như Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nhập vai người hành khất, tên là Văn Cát cứu giúp cho HT. Hư Vân (khi Ngài BÁI HƯƠNG, tam bộ nhất bái với hành trình hơn 3000 km) như nấu ăn, giặt giũ, mang hành lý (Ngài Hư Vân không hế hay biết, người hành khất kia là Bồ Tát) (6).

Với sự ứng hóa đa dạng của Bồ Tát, chúng ta có thể nghĩ rằng trong đời mình cũng có đôi lần gặp Bồ Tát mà mình đâu có biết. Biết đâu bà lão ăn xin tật nguyền kia cũng là Bồ Tát, bà đến để khai mở dòng suối từ bi cho ta, nhưng ta đã lạnh lùng !

Bồ Tát hiện hữu là để giáo hóa, nhưng cũng sẵn sàng gánh nghiệp thay cho chúng sinh. Và, đây là phát nguyện thứ 14 của HT. Tuyên Hóa:“ Nguyện đem tất cả khổ nạn của chúng sinh trong Pháp Giới, đều để một mình con thay thế nhận chịu ”. Có một vị Tỳ Kheo ni bị bịnh nặng, ói mửa không ngớt. Cô rất tin tưởng vào Hòa Thượng , nên lễ lạy trước bức hình của Ngài để cầu nguyện, cô liền hết bịnh. Sáng hôm sau, cô đến chính điện, nơi Hòa thượng đang truyền tam quy, ngũ giới .Sau khi tan lễ, Ngài quay về phía cô nói : “Sáng nay thật là khó chịu cho tôi, vì tối hôm qua, tôi đột nhiên bị bịnh nặng, ói mửa suốt đêm”. Vị Tỳ Kheo đó biết rất rõ Hòa thượng đã gánh lấy sự đau khổ cho mình (7).

HT.Hư Vân (thầy của HT. Tuyên Hóa )có thần thông quảng đại, đã làm những việc mà con người không bao làm được, thế nhưng Ngài lại trải qua 48 biến cố và 10 đại nạn. Xin lược trích một đại nạn cuối cùng vào năm 1951. Ngày 3 tháng 3, ÂL, hơn 10 người lực lưỡng dùng gậy, côn sắt đánh Sư, gây thương tích trầm trọng, Sư bị lỗ đầu ,chảy máu, gãy xương sườn nhưng vẫn nhắm mắt, làm thinh như đang nhập định. Hai ngày sau, nghe tin Sư chưa chết, chúng bèn xông vào thất, đánh một lần nữa, tàn bạo hơn lần trước…Tai, mắt, mũi, miệng đều xuất huyết… Chúng bỏ đi vì nghĩ rằng Sư đã chết. Vài ngày sau, hay tin Ngài vẫn còn sống, chúng bắt đầu dao động. Một tên có vẻ là thủ lãnh hỏi các vị tăng. Đệ tử của Ngài đáp: “Hòa thượng vì chúng sinh mà chịu khổ, do không muốn các ông bị nạn nên Ngài cam bị đánh đập mà không chết . Sau này, các ông sẽ hiểu”(8). Không biết bọn chúng có hiểu không ,chứ Phật tử chúng ta ai cũng hiểu rằng chúng sinh khổ nạn là do nghiệp, Bồ Tát khổ nạn là vì gánh nghiệp thay cho chúng sinh.

Vì sự nghiệp TỪ BI mà Bồ Tát giáo hóa, gánh nghiệp cho chúng sinh. Tâm TỪ BI của Bồ Tát ví như ánh trăng vàng. Bất cứ nơi đâu, bất người nào, dù thiện hay ác, đều cảm nhận được màu vàng huyền diệu của TỪ BI …

LPH02- TỪ BI, KHO BÁU TRONG TÂM CHÚNG TA

B - TỪ BI VÀ TRÍ HUỆ-KHÁI QUÁT VỀ TRÍ HUỆ (9)

Chữ TRÍ gồm có chữ TRI (là biết) và bộ NHẬT (là mặt trời), nghĩa là nhờ ánh sáng mặt trời mà biết, cái biết bên ngoài, thuộc thế giới tự nhiên, tức biết về hiện tượng

Chữ HUỆ gồm chữ TUỆ (là cái chổi ) và bộ TÂM (thuộc về tình cảm, tâm linh), nghĩa là nếu dùng chổi quét bụi trong tâm thì tâm sẽ sáng; tâm sáng tức là thấy ở bên trong, thấy được bản chất của sự việc. Bụi trong tâm chính là tham, sân, si…Tham, sân, si …không những do ta tạo ra ở kiếp này mà cả kiếp trước còn tồn tại. Châu-lợi- bàn-đà- già( trong Kinh A Di Đà) là người đần độn, được sự trợ giúp của 500 vị A-la-hán, nhưng sau 100 ngày vẫn không thuộc được bài kệ, chẳng nhớ được chữ nào…Đức Phật giải thích rõ về lý đần độn của ông là ích kỷ (một tên gọi khác của tham, sân, si). Trong một đời trước, ông là một pháp sư tinh thông Tam Tạng, có 500 đệ tử, ngày nào họ cũng muốn học với ông nhưng ông không muốn dạy…,họ quỳ trước ông ba ngày, ba đêm mà ông vẫn không nói cho họ một lời…nên ông phải chịu quả báo… Nghe xong ông cảm thấy xấu hổ, tự trách mình…Đức Phật liền cầm cái chổi giơ lên và hỏi:

- Ông biết cái gì đây không ?
- Thưa ,cái chổi.
- Ông có nhớ được không ?
- Thưa, nhớ được.

Rồi Đức Phật dạy ông:

-Hãy lặp lại suốt ngày: “chổi, chổi, chổi”.

Ông học thuộc sau vài tuần, Đức Phật đổi các chữ ấy thành“quét sạch, quét sạch, quét sạch”. Nhờ cái chổi vô hình mà Đức Phật đã cho ông, với sự thành tâm sám hối, cố gắng, nổ lực mà ông quét sạch được tâm ông .Và, ông đã khai ngộ (10)

Chúng ta tại sao không khai ngộ? là vì chúng ta chỉ lo TẮM cái thân mà không bao giờ chịu RỬA cái tâm, nên tâm đầy bụi . TRÍ HUỆ ví như tấm kiếng; nếu như kiếng đầy bụi thì sẽ bị mờ, làm sao nhìn thấy được. TRÍ dù có sáng suốt, thông minh , dù là nhà khoa học, bác học mà không có HUỆ thì vẫn là vô minh. Ngược lai, nếu không biết chữ mà có HUỆ thì vẫn biết được bản chất của sự vật, biết những gì mà khoa học không thể biết, làm những gì mà khoa học không làm được như Lục tổ Huệ Năng, Hòa thượng Quảng Khâm…

1 - TỪ BI SINH RA TRÍ HUỆ

- Xin Hòa thượng chỉ dạy cho chúng con khai ngộ được tri kiến Phật (ĐẠI TRÍ HUỆ), một Phật tử hỏi HT.Tuyên Hóa. Ngài đáp:

- Kiến ngộ Phật tức hiểu rõ làm sao để thành Phật và có TRÍ HUỆ Phật, chớ không có chi là huyền bí cả. Học theo Phật, thực hành Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả… (11)

- Con hy vọng được nghe Hòa thượng giảng thêm về đề mục “phát khởi TRÍ HUỆ nội tâm”,một Phật tử khác hỏi, Hòa thượng trả lời :

-TRÍ HUỆ là phải tự mình khai thác. Không nên làm các chuyện ác, hãy làm các việc lành, trước hết là nên phát khởi từ đây(12)

Tại sao muốn khai mở TRÍ HUỆ thì phải thực hành TỪ BI, làm các việc thiện? Vì TỪ BI là đối trị, khắc chế được tham, sân, si, quét được bụi ở tâm nên tâm sáng, tức có TRÍ HUỆ. Và với tâm TỪ BI, hay làm những việc thiện thì tham, sân, si không bám vào tâm được

Như vậy, muốn có TRÍ HUỆ thì phải có tâm TỪ BI, nhưng TỪ BI có SANH ra TRÍ HUỆ ? Thực ra,TỪ BI và TRÍ HUỆ cùng lưu xuất, cùng đồng hành ngay tức khắc (đây là TỪ BI và TRÍ HUỆ Phật, chứ không phải của thế gian vì từ bi và trí huệ của con người là do tâm sai biệt nên không đồng hành. Vì vậy ,câu nói “ từ bi phải có trí huệ” là nhắc nhở những người mới tu hành rằng làm việc thiện cần phải có sự soi sáng của lý trí để làm đúng mục đích và tránh bị lợi dụng )

2- TỪ BI VÀ TRÍ HUỆ ĐỒNG LƯU XUẤT

Vô Trước tu trên núi 12 năm, quán tưởng Đức DI LẶC mà không thấy, thất vọng bèn rời khỏi hang động . Vừa ra khỏi động, Ngài thấy một con chó ghẻ đầy mình, dòi bọ nhung nhúc, đang hấp hối. Quá xúc động ,Ngài cúi xuống nhặt những con dòi ra để cứu con chó. Bỗng nhiên con chó biến mất ,Đức DI LẶC hiện ra. Ngài VÔ TRƯỚC thưa :

“Tại sao suốt 12 năm qua, con không thấy Ngài…” Đức DI LẶC đáp : “Ta vẫn ở bên con, nhưng vì TRÍ HUỆ con chưa khai mở…”. Con chó đáng thương kia tác động vào tâm thức Ngài Vô Trước làm hiển lộ tâm TỪ BI,và khi tâmTỪ BI lưu xuất thì TRÍ HUỆ liền khai mở nên có được thần thông, Ngài đã thấy Đức Di Lặc. Như vậy TỪ BI và TRÍ HUỆ đồng lưu xuất.

3- TỪ BI LÀ TRÍ HUỆ

Nói TỪ BI sinh ra TRÍ HUỆ, hay đồng lưu xuất tức là nói theo ngôn ngữ nhị nguyên, nghĩa là có hai thành phần, thực ra chỉ là một (một trong tất cả, tất cả là một), nênTỪ BI là TRÍ HUỆ; TRÍ HUỆ là TỪ BI. Bất nhị là lý nhất quán của Phật giáo, giống như Âm, Dương trong KINH DỊCH: “nhất Âm , nhất Dương chi vị Đạo”. Âm, Dương không thể rời nhau: động thì gọi là Dương, tịnh thì gọi là Âm. TỪ BI và TRÍ HUỆ cũng vậy. TỰ TÁNH thì tròn đầy, tĩnh lặng, sáng suốt, bao trùm…đó là ĐẠI TRÍ HUỆ (thể tịnh); khi duyên khởi (thể động) để cứu độ chúng sinh thì gọi là TỪ BI (tên gọi chỉ là giả danh vì cả hai chỉ là một, đó là PHẬT TÁNH Hay TỰ TÁNH ). TRÍ HUỆ duyên khởi là HÀO QUANG; HÀO QUANG hóa ra vô số Phật và Bồ Tát để độ chúng sinh, tức TỪ BI :
Vô số hóa Phật trong HÀO QUANG

Chúng hóa Bồ Tát cũng vô biên
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh
Chín phẩm sen vàng lên bến giác

Giáo sư Nguyễn Duy Cần giải thích: “TRÍ HUỆ do TỪ BI mà có, cũng như TỪ BI do TRÍ HUỆ mà sinh, không tách rời nhau được. Hay nói một cách khác: TỪ BI mà không do TRÍ HUỆ phát sinh, không phải là TỪ BI; cũng như TRÍ HUỆ mà không phải là TRÍ HUỆ của lòng TỪ BI phát sinh, chưa phải là TRÍ HUỆ …” (13)

C- TỪ BI và GIỚI :

“ GIỚI là cội gốc của Bồ Đề Vô Thượng” ( Hòa thượng Hư Vân) (14). Như vậy, GIỚI cũng lưu xuất trong TỰ TÁNH. Làm sao nhận biết được? Hòa thượng Tuyên Hóa nói:“ những điều do học hỏi mà biết được thì không phải là của chúng ta. Tâm Bồ Đề phải tự chúng ta phát. “…Một ngày nọ, nhân thấy người hàng xóm đi bắt chim dồng dộc còn đang sống ,đem về nhổ lông rồi nướng ăn. Nhìn sự đau đớn của con vật trước khi chết ,trong lòng Hòa thượng Trí Tịnh xót thương vô cùng. Từ đó, phát tâm ăn chay trường”(Hương senVạn Đức trang 9). Hòa thượng lúc bấy giờ mới có 10 tuổi, chưa có ý thức, thế nhưng Ngài quyết định ăn chay (tức giới sát ), chứng tỏ việc ăn chay phát xuất từ TỰ TÁNH. Nguyên nhân nào khiến Ngài ăn chay? Do lòngTỪ BI. Vậy GIỚI và TỪ BI là một. GIỚI và TỪ BI đồng lưu xuất (không cần giáo hóa, học hỏi), đây là dấu hiệu của người có thiện căn, những vị chân tu, chắc chắn họ sẽ thành tựu trên bước đường tu tập. Thật vậy, một Phật tử có đứa con cũng ăn chay giống như Hòa thượng Thích Trí Tịnh ngày xưa, hỏi Hòa thượng Tuyên Hoá :

Hỏi - : Đệ tử có đứa con 5 tuổi, năm ngoái nhìn thấy người bán gà giết gà thì nó òa khóc và phát nguyện rằng vĩnh viễn sẽ không ăn thịt chúng sanh, cho tới nay nó vẫn giữ lời, không hề thay đổi .Xin Hòa thượng chỉ dạy, đệ tử phải làm sao để giúp đứa con này tăng trưởng huệ căn, A Di Đà Phật!…

Đáp - : Cháu bé không ăn thịt chúng sinh thì nó không phải làm chúng sinh đó !

Câu trả của Hòa thượng rất sâu sắc : không phải làm chúng sinh tức là thành Phật. TỪ BI và GIỚI lưu xuất từ trong TỰ TÁNH rất sớm, tâm Bồ Đề đã tự phát, huệ căn sẽ tăng trưởng tự nhiên…( vì vậy mà Ngài không trả lời trực tiếp, chỉ gợi cho đệ tử mà thôi ). Chỉ có những bậc thiện căn sâu dày thì TỪ BI, GIỚI mới lưu xuất dễ dàng, còn chúng ta thì phải nổ lực hành trì, tác động bên ngoài để khai mở bên trong. TỪ BI sẵn có trong tâm ví như suối nước, bị lớp sỏi đá tham, sân, si…ngăn cản. Nếu ta làm một vài việc thiện thì nước trong suối TỪ BI đó sẽ ngấm qua lỗ mội, nếu tiếp tục làm việc thiện thì lỗ mội sẽ thành khe hở, lâu ngày khe hở thành khe nước lớn để suối TỪ BI lưu xuất dễ dàng. Hành trì GIỚI cũng vậy, mà niệm Phật cũng vậy (niệm Phật bên ngoài để làm hiển lộ Phật trong tâm)

Về mặt Sự thì GIỚI sinh ra ĐỊNH, ĐỊNH sinh ra HUỆ; về mặt LÝ thì GIỚI là ĐỊNH ,là HUỆ, Là TỪ BI…(một trong tất cả). Chúng ta phải nhờ SỰ để đạt LÝ nên GIỚI vô cùng quan trọng.Đức Phật dạy rằng sau khi Ngài nhập diệt, chúng ta phải lấy GIỚI làm THẦY.

D- TẤT CẢ CHÚNG SINH ĐỀU CÓ TÂM TỪ BI

Loài người thường tự hào về sự thông minh của mình, nhưng lại dùng cái trí thông minh đó để sát hại động vật, thay vì che chở cho chúng .Với cái trí thông minh khoa học đó, cho rằng động vật chỉ có bản năng, chứ không có trí óc và tình cảm. Đây là nhận định sai lầm, biết một mà không biết mười. Đức Phật đã dạy : “tất cả chúng sinh đều có Phật tính”, nghĩa là có lòng TỪ BI. Như vậy, súc sinh cũng có tâm TỪ BI. Tuy nhiên, súc sinh có tham dục nhiều hơn, nghiệp chướng nặng hơn người nên TRÍ HUỆ và TỪ BI rất khó khai mở . Nhưng, trong cộng nghiệp có biệt nghiệp. Có người nói rằng cứ vài ngàn con vật thì có con có tánh linh, có tình cảm như người (con số này chỉ là tương đối giúp ta có ý niệm mà thôi). Tại sao? vì kiếp trước, lúc sinh ra ở cõi người, chúng có tu tập, làm những việc phước đức, có hiếu thảo…

Chuyện kể rằng có người thợ săn bắn hạ một con vượn con, vượn mẹ quá thương con, nhảy xuống ôm con vào lòng, thế là nó bị bắt. Khi làm thịt, người ta thấy ruột vượn mẹ đứt ra từng khúc. Từ đó, hai chữ ĐOẠN TRƯỜNG (đứt ruột) được dùng để nói lên sự đau xót tột cùng…

Bạn có biết chữ LỆ (nước mắt), theo chữ Hán, gồm có: bộ THỦY là nước, chỉ nước mắt; chữ THI là xác chết; chữ KHUYỂN là con chó . Con chó thấy xác chủ bèn chảy nước mắt …Nngười tạo ra chữ Hán có lẽ là bậc Thánh, vì thấy rõ cái nghiệp ở tiền kiếp của chó làm thân người, quá thương yêu, quyến luyến , muốn che chở bảo vệ người thân . Khi chết đi, đầu thai vào thân chó, nhưng chủng tử tiền kiếp vẫn còn trong tâm thức. Sóng trong tâm phát ra, cộng hưởng với sóng trong tâm của người thân mà tìm đến nhau ,nhưng cả hai đều không biết, “đồng khí tương cầu”, vượt ra ngoài sự hiểu biết của lý trí) .

Người xưa giải thích rất hay nhưng lại không có bằng chứng; người đời nay có bằng chứng nhưng không giải thích được. Xin ghi lại hai câu chuyện thật sau đây: “Nhà khoa học WALMSLEY thuộc Đại học OXFORD, Anh quốc, cùng nhóm nghiên cứu đã ghi lại hình ảnh xúc động của một chú khỉ bờm đen đau buồn ôm xác con trong hai ngày tại bảo tồn thiên nhiên Tangkoko, thuộc vườn thú quốc gia Sulawesi, Indonesia. Các nhà khoa học cho biết bé khỉ trong bức ảnh chỉ vài tuần tuổi, thuộc loài khỉ bờm đen. Hình ảnh mẹ khỉ ghì chặt xác con vào ngực, sau đó thực hiện những hành động âu yếm như chải chuốt, hôn và nhìn nó bằng ánh mắt buồn bã. Thậm chí, có một hai lần mẹ khỉ lấy tay đẩy một con khỉ đực khi nó đang cố gắng tiếp cận chạm vào bé khỉ. Các nhà khoa học đã bỏ đi sau một giờ quan sát. Hai ngày sau, họ quay trở lại và sửng sốt trước cảnh tượng mẹ khỉ vẫn ôm chặt con. Và cuối cùng, khoảng một vài tiếng nữa, nó bỏ xác bé khỉ và ra đi trong tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng.” (Trùng Dương-TUỔI TRẺ ONLINE ngày 13/5/2014 )

Câu chuyện con khỉ bờm làm ta liên tưởng đến con vượn mẹ ở trên, còn chú hươu cao cổ sau đây lại giống con chó rơi lệ khi nhìn thấy xác người chủ : “Theo hãng tin Mỹ ABC News ngày 21/3/2014, ông Mario bị ung thư giai đoạn cuối, có tâm nguyện được trung tâm y tế Ambulance Wish đưa đến sở thú Blijdorp để nói lên lời vĩnh biệt với các đồng nghiệp và muốn nhìn thấy lần cuối cùng những động vật được ông chăm sóc trong 25 năm qua, trong đó có những chú hươu cao cổ đáng yêu. Trong cơn hấp hối trên giường bệnh, một chú hươu cao cổ tiến tới gần, thò đầu qua khung chắn bảovệ và đặt nụ hôn tình cảm tri ân lên phần trán và mũi ông Mario. Đó là một thời điểm rất đặc biệt, ông Mario đã mĩm cười khi được chú hươu cao cổ hôn. Dường như con vật cảm nhận sức khỏe đang tồi tệ. Ông Kees Veldboer giám đốc Ambulance Wish nói với Dutch News của Hà Lan (Huỳnh Phương ,TUỔI TRẺ ONLINE ) .

Con người, dù may mắn sinh vào cõi Người, nhưng mỗi người lại có một nghiệp khác nhau, có người thiện, người ác, người hưởng phước đức, người bạc phước, “một trăm người đục, một chục người thanh”, thế giới súc sinh cũng vậy, đa số vô minh, mê muội nhưng cũng có những con có tình cảm, có tánh linh, có thần thông, biết biến hình . Các vị Pháp sư thường hay kể về một vị Hòa thượng giảng sai luật nhân quả mà phải bị 500 kiếp làm chồn, nhờ có thần thông, biến thành hình người, tìm gặp Ngài Bách Trượng để thỉnh giáo, nhờ vậy mà thoát được kiếp làm chồn.

Trong tác phẩm “THƠM NGÁT HƯƠNG LAN”, HT. Hư Vân đã kể lại nhiều con vật có tánh linh được Ngài quy y, biết ăn chay, niệm Phật, khi chết thị hiện tướng vãng sinh. Xin trích lại một vài trường hợp:

CHUYỆN CON SÁO Ở ĐIỀN TẠNG: “ Năm ấy, ở đại hội Phật giáo Điền Tạng, có một chuyện lạ nhỏ. Dân làng đem một con sáo biết nói đến phóng sinh. Mới đầu nó còn ăn thịt. Tôi quy y xong, dạy nó niệm Phật thì nó không chịu ăn mặn nữa. Sáo rất ngoan, dễ bảo ,biết tự động bay ra, bay vào. Ngày nào nó cũng niệm danh hiệu Phật và Thánh hiệu Bồ Tát QuanThế Âm không gián đoạn. Một hôm, nó bị chim ưng bắt đi, giữa không trung,vẫn còn nghe tiếng nó niệm Phật lảnh lót. Tuy nó mang thân thú nhưng lúc sắp xả báo thân, kề cận cái chết mà vẫn không bỏ niệm Phật, lẽ nào làm người, lại không bằng sáo nhỏ kia ư?” (trang 130)

CHUYỆN CON NGỖNG Ở CỔ SƠN: “Tháng sáu, khánh thành vườn phóng sinh, cư sĩ Trịnh Cầm Tiêu đưa đến một bầy ngỗng, trong đó có một con ngỗng trống rất là đặc biệt nặng 9kg6, hễ nghe tiếng mõ thì nó dang cánh, rướn cổ kêu to, lúc vào Điện Phật thì nó đứng yên chiêm ngưỡng. Được một tháng, nó đứng trước Phật mà mất, vẫn không ngã. Trịnh cư sĩ lấy làm lạ bèn xin thiêu nó như chư tăng. Để 7 ngày mới thiêu, vẫn không có mùi hôi. Nhân đó, mới làm ngôi mộ cho nó” (trang 178)

CHUYỆN CON CHỒN TRẮNG: Năm Dân Quốc 25, Bính Tý…Lâm quốc Canh( đoàn trưởng sư đoàn 16 ) đến thăm, tay xách cái lồng, trong có con chồn toàn thân trắng tuyết, điểm lấm chấm đen…Ông kể lại lý lịch ly kỳ của con chồn. HT. Hư Vân liền thu nhận,và quy y. Ngài thuyết Tam quy, Ngũ giới cho nó xong thì thả nó ra khu rừng rậm sau chùa. Từ khi thọ giới, nó không còn ăn mặn nữa. Những người thợ xây chùa trêu chọc nó, họ nhét thịt vào chuối đưa cho nó ăn. Con chồn khi biết mình ăn nhầm, liền nhổ ra, tỏ vẻ giận dữ, bất bình. Sau đó, nó bỏ đi suốt mấy ngày…Một hôm, chẳng biết nó đi đâu mà bị xe cán trọng thương, không đứng dậy nổi… Hòa thượng biết không thể cứu được, bèn khai thị : “Cái túi da này, không đáng để lưu luyến nữa, con đừng bám víu vào, hãy buông xả và sám hối tất cả nghiệp duyên .Khởi một niệm sai thì phải đọa, phải nhận lấy ác báo, chịu nhiều thống khổ. Giờ đây quả báo của nghiệp xưa đã mãn, ta mong con nhất tâm niệm Phật, để sớm được giải thoát. Nó hiểu ý, gật gật đầu, kêu lên mấy tiếng ,rồi tắt hơi. Thi thể nó để hai ngày mà vẫn không biến đổi …Nó được tổ chức tang lễ như môt vị tăng (tóm lược, trang 194-97)

Trong tác phẩm “CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA”, ta thấy có những nhân vật đặc biệt xin quy y với Ngài như lang sói, quỷ thần, giang hồ…Những đối tượng này, chỉ cần nghe tên là ta cảm thấy ớn lạnh, nhưng chúng lại có tâm hướng thiện. Theo lời kể của Ngài, người đệ tử thứ hai của Ngài là một kẻ hư xấu nhất, không một việc xấu nào mà chú không làm, pháp danh là Qủa Thuấn, sau khi xuất gia đã hoàn toàn thay đổi. Ngài nói: “Chú theo tôi xuất gia cũng nhiều năm nhưng chỉ mặc có một bộ đồ, không có áo ấm, không có giày đệm ấm, cái gì chú cũng không có. Chú còn giữ giới không giữ tiền, ngày ăn một bữa ngọ, thường ngồi, không nằm, tu hạnh Đầu Đà. Trong số các đệ tử của tôi, chú đứng nhất về tu hạnh Đầu Đà ,Quả Thuấn tinh tấn tu đạo, chuyên tâm, nhất ý thiền định, .. Trong định chú biết được tất cả các nhân quả ở quá khứ, hiện tại ,tương lai…” Có ai ngờ, từ một người xấu ác, chú đã trở thành vị đệ tử mà Hòa thượng ưa thích nhất. Hòa thượng kể : “Quả Thuấn có ba cái không sợ: không sợ đói chết, không sợ nghèo chết, không sợ lửa thiêu chết. Chú ta không giống như những vị thầy chính trị, vì sân hận mà tự thiêu cho chính phủ xem! Chú ta vì cảm nhận được nỗi khổ của thế gian này, nên muốn thay chúng sinh chịu khổ báo mà đốt thân cúng Phật, hồi hướng cho chúng sinh. Ngày hôm sau, dân trong thôn thấy chòi tranh bị lửa lớn cháy rụi, vội đến xem xét thì phát hiện thân thể Qủa Thuấn cháy thành tro, trong lúc vẫn còn ngồi ngay ngắn, duy có trái tim không bị cháy. Đây đủ chứng minh chú có định lực, đã thành đạo nghiệp, cử chỉ, hành động, lời nói của chú đã hoàn toàn không giống như xưa . Về sau, Vạn Phật Thánh Thành(ở Mỹ) có thành lập bài vị cho chú, rất tiếc là tôi không có hình của chú”(15)
Quả Thuấn, đã chứng minh câu nói của người xưa “ kẻ đại ác hồi đầu thành người đại thiện”. Quả thật, thiện ác, mê ngộ như hai mặt của một bàn tay, chỉ cần lật qua thì ta có ngay tức khắc mặt khác…Con sáo, con chồn chưa vào chùa thì vẫn còn kiếp súc sinh (ăn mặn, tức sát sanh…), khi gặp Ngài HưVân thì tự động ăn chay, tâm súc sinh đã thành tâm của người tu hành, dù vẫn còn mang xác súc sinh…Do vậy, chúng ta nên dùng tâm TỪ BI mà đối đãi nhau, đừng lấy tâm phân biệt mà chấp vào thiện ác, người tốt, kẻ xấu rất dễ gặp chướng ngại trên con đường tu tập.

PHỤ CHÚ: Đức Phật nói : “Tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh”, nghĩa là đều có tâm TỪ BI nên tiêu đề (phần D) không cần phải giải thích, chứng minh. Tuy nhiên, do lòng xót thương kiếp súc sinh phải sống chung với cõi người, nên hàng ngày, có vô số, vô lượng con vật bị giết chết bởi bàn tay của con người.Một trong số những lý do giết hại đó là không biết con vật cũng có tình cảm, có tâm hướng thiện, có tánh linh, cũng biết đi tìm chân sư và chúng tìm còn chính xác hơn ta, nên chúng tôi sưu tầm những câu chuyện thật, có nhân chứng, vật chứng, có thời gian, không gian rõ ràng, giúp súc sinh minh oan, nói giúp chúng một đôi lời …Nếu bạn giết hại súc sinh (trực tiếp hay gián tiếp), tức là mình đã gieo trồng NHÂN súc sinh trong tạng thức rồi, con vật đó chính là bạn ở kiếp sau. Luật NHÂN QUẢ không bao giờ sai .Và, nếu giết lầm, ăn lầm một con vật có tánh linh thì tai họa sẽ đến ngay tức khắc.

Đây là câu chuyện “ Săn bắn chim linh thiêng bị tai nạn và chết thảm”, do chị Hòa Bình kể tại VIỆT NAM PHẬT QUỐC TỰ, ngày 11/11/2010,HT.Huyền Diệu ghi lại. Chúng tôi xin lược ghi: “Chùa Bái Đính là một quần thể chùa cũ và mới rất đẹp ở Ninh Bình do công ty Xuân Trường tái thiết rất đẹp, nhờ vậy mà cảnh hùng vĩ núi non nầy được phát hiện và bảo vệ, nên chim chóc nhiều loại về đây trú ngụ, đặc biệt là loại chịm quý hiếm mà nhiều người gọi là Linh Điểu… Việc xuất hiện nhiều loại chim đặc biệt này đã thu hút rất nhiều người yêu quý thiên nhiên…bên cạnh đó cũng đồng thời xuất hiện những con người thích săn bắn…Họ cho rằng khi bắn được loại chim này thì được bạn bè khen, cho đó là sự thành công của cuộc đời… Có người trong gia quyến của họ, vì lòng từ bi đề nghị đừng sát hại loại chim này thì bị mắng nhiếc, chửi bới…Có một vị bác sĩ nổi tiếng của địa phương cũng hợp tác …vào rừng săn bắn. Không lâu sau đó bỗng có một tin kinh hoàng xảy ra .Vị bác sĩ không biềt do nguyên cớ gì từ trên lầu cao nhảy xuống đất chết một cách thảm thiết . Còn một người khác thì tự nhiên lấy súng bắn vào đầu tự tử. Hai người khác thì bị xe cán chết trên đường đi nhậu thịt rừng.”(16)

E- TỪ BI LÀ TINH HOA CỦA ĐẠO PHẬT

Nói đến đạo Phật, người ta nghĩ ngay đến TỪ BI, vì chỉ có đạo Phật mới có TỪ BI, các tôn giáo bạn đều dạy cho ta làm điều thiện, nhưng chỉ thiện với con người mà không thiện với loài vật, cái thiện của tâm phân biệt, nên có một giới hạn nhất định. TỪ BI của đạo Phật là TỪ BI của TRÍ HUỆ (có lục thông, ngũ nhãn, nên thấy tất cả chúng sinh điều có mối liên hệ với nhau như từng là cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cháu…) nên tình cảm vừa có chiều rộng (thương tất cả các đối tượng), vừa có chiều sâu (cứu giúp, xả thân vì chúng sinh). TỪ BI của đạo Phật thể hiện một sự bình đẳng, không có nhân, có ngã, không còn tâm phân biệt đối tượng, HT.Tuyên Hóa đã nói:“Ai muốn giết con kiến hãy giết tôi đi”. Nếu tinh hoa của đạo Phật là bình đẳng quan về mặt triết lý, thì TỪ BI đã thể hiện được triết lý này; nếu tinh hoa của đạo Phật là nét đẹp về tâm hồn, thì TỪ BI chính là tinh hoa của đạo Phật ; nếu như tinh hoa của đạo Phật là sự nhiệm mầu, thì TỪ BI cũng chính là tinh hoa của đạo Phật, vì TỪ BI là siêu khoa học, đã làm được những điều mà khoa học dù có hiện đại đến đâu cũng không thể nào làm được…(Chúng tôi đề cập ở phần sau)

CHÚ THÍCH:

(1)Một vị Hòa thượng ở miền Trung (khuyết danh) :

Kinh sách lưu truyền tám vạn tư
Học hành chẳng thiếu, cũng chẳng dư
Đến nay tính lại, dường quên hết
Chỉ thoáng trong đầu một chữ NHƯ

(2) 347- 48 KINH THỦ LĂNG NGHIÊM, Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, tập 1, Thích Nhuận Châu dịch, NXB. Phương Đông

(3) Trang 73, 13 VỊ TỔ TỊNH ĐỘ TÔNG, Hòa thượng Thích Thiền Tâm, NXB .Phương Đông

(4)Trang 279, KINH THỦ LĂNG NGHIÊM, Hỏa thượng Tuyên Hóa giảng thuật,…tập 5

(5)Trang 347, CẨM NANG TU ĐẠO, LƯỢC THUẬT HÀNH TRANG HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂN, NXB.Tôn giáo: Hòa thượng Quảng Khâm và Hòa thượng Tuyên Hóa gặp nhau tại Đài Loan, vào năm 1974. Xin trích đoạn đối thoại của hai vị:

Hòa thượng Quảng Khâm :
-Ngài chính là Bồ Tát
Hòa thượng Tuyên Hóa :
-Ngài chính là Đại A La Hán ,chúng ta sớm đã biết nhau, mấy chục năm không gặp,bây giờ lại được trùng phùng,tuy nói vậy,nhưng chúng ta đã gặp nhau mấy lần rồi.
Hòa thượng Quảng Khâm :
-Ngài vừa đến, tôi đã biết trước, Ngài là ai. Tâm Bồ Tát định gặp là gặp.

(6)Trang 29 – 34, THƠM NGÁT HƯƠNG LAN (Hòa thượng Hư Vân), do Kiều Châu, Như Thủy, Hạnh Đoan dịch.

(7)Trang 121,THỬ LUẬN VỀ NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA ĐỐI VỚI NỀN PHẬT HỌC,Trần Do Bân, Sách Ấn tống.

(8) Trang 326 -36, THƠN NGÁT HƯƠNG LAN.

(9) Chữ HUỆ chính là chữ TUỆ (có bộ tâm), Phật giáo hay dùng chữ HUỆ, thế tục thì dùng TUỆ . Chữ TUỆ không có bộ tâm có nghĩa là cái chổi.

(10) Trang 145 -49, KINH THỦ LĂNG NGHIÊM Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, tập 5.

(11) Trang 28, GẬY KIM CANG HÉT (Hòa thượng Tuyên Hóa vấn đáp ký lục) tập 1.

(12) Trang 87, tập 2

(13) PHẬT HỌC TINH HOA, Nuyễn Duy Cần, NXB. Khai Trí

(14) Tang 287 THƠM NGÁT HƯƠNG LAN.

(15) Trang 225-229 và 325-326, CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

(16)Trang 73, KHI MẶT TRỜI LÊN,Hòa thượng Huyền Diệu

LPH03- TỪ BI, KHO BÁU TRONG TÂM CHÚNG TA


*PHẦN THỨ HAI: TỪ BI, SỰ MẦU NHIỆM SIÊU VIỆT*

Kho báu TỪ BI ở ngay trong tâm chúng ta, có một năng lực mầu nhiệm, siêu khoa học; nhưng muốn tìm được kho báu này, chúng ta phải buông bỏ hết “kho báu” thế gian, đó là sắc, thanh, hương,vị, xúc, pháp. Bỏ một đã khó, làm sao bỏ cả sáu ? Cho nên dù chư Phật và Bồ Tát xót thương chỉ dạy, con người vẫn cứ thờ ơ, chỉ thích bám lấy “kho báu” trần gian với bất cứ giá nào! May mắn cho chúng ta, các vị chân tu thời hiện đại đã buông bỏ hết vạn duyên thế tục, với một trái tim TỪ BI đã đến được kho tàng quý giá này, mang về cho đời những viên ngọc quý, rất nhiệm mầu… Sự nhiệm mầu thể hiện qua sự trải nghiệm tâm linh, và trong quá trình hoằng pháp với những mẫu chuyện thật, người thật, đây cũng là nhưng bài pháp viết bằng chuyện kể có khả năng làm thức tỉnh những ai còn chưa tin sâu vào sự nhiệm mầu của kho báu TỪ BI.

A- TỪ BI : PHẢN KHOA HỌC, SIÊU KHOA HỌC, VÀ KHOA HỌC

Căn cứ vào những trải nghiệm tâm linh của những vị chân tu để so sánh với khoa học, ta thấy TỪ BI vừa phản khoa học, vừa siêu khoa học, nhưng cũng là khoa học. Đặc điểm này dễ nhận biết nhất trong lãnh vực y học :

-VỀ ĂN UỐNG :

Về ăn uống, y học Tây phương chú trọng vào hàm lượng dinh dưỡng calori như tinh bột, chất đạm, chất béo, sinh tố… Đông y thì quan tâm về bổ âm, bổ dương, nếu thiếu chất dinh dưỡng thì cơ thể sẽ suy nhược, thiếu trầm trọng sẽ tử vong. Các vị chân tu thì có quan điểm ngược lại: HT. Quảng Khâm, chỉ có 10 cân gạo, ẩn tu trên núi 13 năm, Ngài ăn trái cây, củ rừng, HT. Tuyên Hóa cũng ăn uống như vậy trong ba năm thủ hiếu ở mộ mẹ, đôi khi phải nhịn đói, HT. Hư Vân ẩn tu trên núi hai lẩn(mỗi lẩn 3 năm). Ngài kể “Từ 28, 29, 30 tuổi, suốt ba năm này, tôi ở trong hang núi, chỉ ăn trái thông, rau cỏ…khát thì uống nước suối…tôi bấy giờ một bát cũng không có, vẫn sống vô ngại tự tại, thư thái an nhiên, thể lực ngày một cường tráng, tai mắt sáng tỏ, cất bước nhẹ nhàng, lẹ như bay …” (1)

-VỀ VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM

HT. Quảng Khâm, sau mỗi buổi ăn, Ngài lượm những thức ăn rơi rớt dưới đất mà ăn .HT. Tuyên Hóa (lúc chưa xuất gia, nhưng Ngài đã phát Bồ Đề tâm) đã từng lượm vỏ khoai của cảc bạn vứt xuống đất mà ăn, kể cả khi bạn nhả ra vì ăn nhầm vỏ củ. Ngài kể, khi thủ hiếu ở mộ mẹ, có một vị Tỳ Kheo cho Ngài một thùng bánh bao(chừng21 cái): “Lúc bấy giờ trời nóng oi bức mà tôi thì không để ý gì hết, nên không đem bánh ra ngoài hong gió, hay phơi cho khô, rốt cuộc bên trong, bên ngoài đều nổi mốc, cao dày khoảng một tấc rưỡi(tấc mộc). Bánh bao bị hư mốc meo đến thế, nếu đem bỏ đi thì sao? Đây là vật người ta cúng dường, hơn nũa là do thầy Tỳ Kheo đem tới, trong khi đó, tôi chỉ là một chú Sa Di. Còn nếu không bỏ đi, rất khó ăn vì nó vừa cay nồng vừa hôi thúi…Có người đến thấy tôi ăn bánh bao meo mốc này, liền bảo tôi đừng ăn, nói ăn sẽ bị bịnh chết. Tôi nói: “sanh bịnh à ?Cái gì sanh bịnh?”…Nhưng tôi ăn hết bánh mốc đó cũng không bị bịnh, cũng không có việc gì xảy ra! Lúc đó tôi buông xả cả thân tâm, cho nên mới có thể ăn được “cái không thể ăn”. Tôi tin rằng lúc đó dù có cái gì khó ăn cách mấy đi nữa tôi đều có thể ăn được”(2)

-KHẢ NĂNG NHỊN ĂN, UỐNG

HT. Tuyên Hóa có khả năng nhịn ăn hai, ba tháng mà vẫn có thể xách được vật nặng chừng 14 kg. (Ngài từng nói, nhịn ăn là nhường phần mình cho người khác , vì vật chất sẽ không mất đi đâu cả). Các vị chân tu nhập định một vài tuần là chuyện bình thường, thậm chí cả hàng tháng . Nhập định thì không ăn, uống, khi vào sâu thì hơi thở cũng không còn như HT. Quảng khâm: “Hòa Thượng thường hay nhập định. Có lần Ngài nhập định vài tháng, không ăn, không uống, không động đậy thân thể; thậm chí hơi thở như đứt tuyệt. Có người gần đấy lầm tưởng rằng Ngài đã viên tịch, nên đã tức tốc cấp báo với HT. Chuyển Trần để lo việc hỏa táng. May thay lúc ấy, có vị cao tăng là Đại Sư Hoằng Nhất đang ở chùa gần đấy, nghe tin trên bèn cùng HT. Chuyển Trần lên núi xem hư thực. Tới nơi, Đại Sư Hoằng Nhất biết Ngài đang nhập định, liền gõ ba tiếng khánh đánh thức Ngài dậy từ trạng thái thiền định. Tin Ngài nhập lan đi khắp nơi, khiến ai ai cũng tán thán” (3) Ta biết rằng không uống nước bốn, năm ngày là chết, không thở vài phút là chết, vậy mà Ngài không thở, không uống hàng tháng trời mà vẫn sống. Thật là mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, khoa học không thể nào giải thích được.

- NGỦ ( Nhất tâm bất loạn không cần ngủ)

Khoa học coi trọng giấc ngủ rất đúng vì cơ thể hoạt động mỏi mệt nên cần phải có thời gian ngủ nghỉ. Tại sao cơ thể mỏi mệt ? Vì mất đi năng lượng; năng lượng mất đi do hoạt động cơ bắp thì ít, mà mất do vọng tưởng, tham, sân, si …nhiều hơn vì nó làm cho hệ thống thần kinh ở não bộ hoạt động liên tục như lo sợ, buồn vui, hờn giận, tiếc thương…khiến ta tiều tụy, mỏi mệt hơn là lao động chân tay. Các vị chân tu,với tâm TỪ BI luôn luôn thanh tịnh(không vọng tưởng, không tham, sân, si, không vị kỷ…) nên thần kinh ở não hầu như không hoạt động, không mỏi mệt, do đó ngủ rất ít hoặc không ngủ. HT. Hư Vân không ngủ, nhưng Ngài thọ 120 tuổi, tâm trí siêu việt. HT. Thích Trí Tịnh không ngủ nhưng Ngài vẫn khỏe, khi siêu âm thì nội tạng vẫn tốt. HT.Quảng Khâm nói rằng khi ta đạt đến nhất tâm bất loạn thì ăn ngủ không thành vấn đề. Các vị tu khổ hạnh (thân càng khổ thì tâm càng an lạc) thì ngủ ngồi; thực ra cách ngồi kiết già để vào định, chứ không phải là ngủ như chúng ta.Thật vậy, nếu ngồi mà ngủ thì thân sẽ ngả nghiêng, lưng, cổ không thẳng, khí huyết lưu thông gặp trở ngại sẽ bị bịnh ngay, làm sao các Ngài có thể ngủ ngồi cả trăm năm như HT. Hư Vân, năm, sáu mươi năm như HT. Tuyên Hóa, Quạng Khâm. (HT. Quảng Khâm tuy ở chùa nhưng Ngài không vào chùa ngủ, mà ngồi kiết già thiền định ở ngoài sân) . Có một Phật tử hiếu kỳ hỏi HT. Tuyên Hóa:

- Ban đêm ngủ ngồi có ích chi?
Đáp:- Tối ngủ ngồi là không nằm xuống ngủ, chúng ta không những tiết kiệm được giấc ngủ mà tinh thần càng sáng suốt hơn và hàng phục được tâm dâm dục nữa (tức vào định)(4)

-GIỮ ẤM THÂN NHIỆT

Khả năng chịu đựng của con người có giới hạn nhất định, không thể chịu đựng được nhiệt độ quá nóng hay quá lạnh. Có người cho rằng Đức Phật Thích Ca tu trên núi Tuyết là huyền thoại, vì làm sao con người lại chịu được cái lạnh của tuyết trong sáu năm. Nhưng, các đệ tử của Ngài hơn 2500 năm sau đã chứng minh điều đó như HT. Hư Vân, Quảng Khâm chỉ có áo vải mà ẩn tu trên núi trong một thời gian khá dài. Mùa đông ở Trung Quốc nhiệt độ âm rất lạnh. HT.Tuyên Hóa kể: “ Ở Đông Bắc vào mùa đông, thường thường là 33, 34 độ dưới 0 độ, khi xuống 38 độ dưới 0 là nhất định rét cóng chết người được. Khi thời tiết như vậy, tôi lại phát nguyện không mặc áo len, chăn bông, chỉ mặc áo vải…Tôi đi chân không trên tuyết, chân rét nhưng không bị tổn thương. Tôi tiết kiệm các y phục để dành hồi hướng cho người không có đồ mặc…Nếu người nào phát nguyện gì tức Phật, Bồ Tát sẽ mãn nguyện cho người ấy”(5). Khoa học không thể nào lý giải được, cũng không thể phản bác được, vì các vị chân tu đã chứng minh được điều mình nói(nói được thì làm được)

Sự so sánh nhỏ ở trên (mới chỉ là một lãnh vực) đã làm nổi bật sự tương phản, nhờ đó mà thấy được tính siêu khoa học. Tại sao gọi siêu khoa học? Vì các vị chân tu không dựa vào kiến thức của khoa học mà vẫn sống tốt hơn; chẳng những tốt hơn mà còn làm được những việc phi thường, tưởng như trong cổ tích ,HT.Hư Vân kể : “Mùa xuân, từ Đình Quan Âm, chúng tôi bắt đầu chở ngọc Phật đi, thuê tám người khiêng, giao hẹn rõ ràng…nhưng những người khiêng thuê nghi trong tượng có giấu tiền, vàng chi đó…họ muốn tăng thù lao lên gấp đôi. Tôi biết không thể cãi lý với họ, chợt thấy ven đường có tảng đá to, nặng gấp ba lần tượng Phật, tôi liền bảo họ:
-Tảng đá này so với tượng Phật, bên nào nặng hơn?

Họ Đáp:- Đá nặng gấp mấy lần!...Tôi bèn đưa hai tay nhấc bổng hòn đá lên khỏi mặt đất. Bọn họ le lưỡi, cảm phục …xá tôi …Họ chẳng còn đòi hỏi gì nữa…(6)

Một người “suy dinh dưỡng” trầm trọng và không ngủ, lại mạnh hơn lực sĩ và thọ đến 120 tuổi, tỉnh táo đến phút cuối cùng. Chắc có người cho là nhờ một sự bí ẩn nào đó. Phật pháp rất quang minh, không có gì là bí mật cả, bất cứ ai làm đúng phương pháp thì đều có kết quả, nghĩa là rất khoa học .Phật pháp có nhiều pháp môn (pháp môn nào cũng TỪ BI); mỗi pháp môn có một cách hành trì riêng, tùy thuộc vào căn cơ, hoàn cảnh của mỗi người, như Tịnh Độ Tông thì phát Bồ Đề tâm, tín, nguyện, hạnh(niệm Phật), ai tinh tấn, người đó sẽ được vãng sinh, không phân biệt xuất gia hay tại gia (ngày nay, vãng sinh đã trở thành chuyện thường ngày). Với cách tu khổ hạnh (hạnh Đầu Đà), tuy khó nhưng nếu chịu “khổ thông” sẽ được thần thông. HT.Quảng Khâm khi xuất gia, được HT. Chuyển Trần dạy: “ Ăn thức ăn mà người không muốn ăn, mặc cái mà người không muốn mặc, làm cái mà người không muốn làm, về sau con sẽ rõ”. Và về sau, Ngài đã trở thành một vị Thánh, một bậc ĐẠI TỪ BI.

Quả Thuấn, như đã đề cập ở trên, khi xin xuất gia, HT. Tuyên Hóa đã đưa những điều kiện rất cụ thể: “xuất gia là việc cực khổ, cần nhẫn điều mà người ta không nhẫn được, nhường những điều mà người ta không nhường được, ăn cái mà người ta không thể ăn, mặc cái mà người ta không thể mặc, quên mình vì người, bỏ việc tư vì việc công, mới chính là bổn phận của người xuất gia. Nếu chú có thể làm được như vậy thì mới có thể xuất gia được”(7) (có lẽ chú là giang hồ nên HT.mới nói rõ ràng các điều kiện khắc nghiệt như vậy). Chú đã y giáo phụng hành và đã thành công: khai mở được TRÍ HUỆ và có được cái tâm TỪ BI của Bồ Tát.

Làm đúng cách thì đạt kết quả và nhiều người tự làm được thì đó chính là khoa học vậy. (Lời của HT.Tuyên hóa trên, đã tóm tắt phương pháp hành trì hạnh TỪ BI một cách hiệu quả nhất)

B- TỪ BI: PHƯƠNG THUỐC TRỊ BỊNH MẦU NHIỆM

Bịnh có ba loại: thân bịnh, tâm bịnh, nghiệp bịnh. Khó trị nhất là tâm bịnh và nghiệp bịnh. Tại sao con người lại bịnh? Đông y cho là do tà khí từ bên ngài xâm nhập vào cơ thể. Tà khí là gì? Đó là thời tiết, vi trùng, hóa chất độc hại, phóng xạ… Ngoài ra, còn có một loại độc tố nguy hiểm khác mà y học không thể nào nhận biết được. HT. Tuyên Hóa giảng: “ Những vọng tưởng về tà tri, tà kiến của chúng ta, như các tâm sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối ,sân hận,ghen ghét…đều chứa đựng độc tố bên trong, nên khi chúng phát ra sẽ làm cho không gian bị ô nhiễm. Bởi không gian chứa nhiều độc tố, thành thử hấp thụ vào cơ thể, cơ thể sẽ trúng độc…”(8) Bên ngoài tà khí xâm nhập vào; bên trong chính khí suy nên bịnh. Chính khí suy do rối loạn về tâm lý, tình cảm như hờn giận, lo lắng,buồn đau, tiếc thương …( tức lục dục thất tình dậy sóng trong tâm) kéo dài liên tục, bị đè nén,âm thầm chịu đựng. Nguyên nhân bên trong mới là chính yếu. Chính khí suy nên ngũ tạng bị ảnh hưởng,hệ thống miễn nhiễm suy, kháng thể yếu không có khả năng chống lại tà khí…

Chính khí là gì? Đó là chất vô hình, khả năng con người không thể biết được nhưng cảm nhận được, vì cảm nhận nên cách lý giải thường khác nhau. Chỉ có bậc TRÍ HUỆ mới giải thích được. HT. Tuyên Hóa giảng: “ Pháp nghĩa là gì? Quý vị trả lời: “Tôi biết rồi, đó là Pháp của Phật,của Pháp,của Tăng”.Thực ra quý vị chưa hiểu gì nhiều, nếu quý vị thực sự hiểu được ,quý vị đã không đánh mất Pháp của chính mình. Rốt cuộc, Pháp là gì? Pháp là khí chất sinh động của chúng ta. Trên nó thông cả thiên đường,dưới nó thấu cả địa ngục. Đến mức như chư Phật ,Bồ Tát cũng đồng một thể với chúng ta, vì khí chất sinh động ấy của chúng ta quán thôn tất cả. Khí này như hơi thở. Bao trùm và điều động được khí ấy gọi là Pháp. Do vậy,chúng ta dứt khoát cần phải nuôi dưỡng khí chất này. Chúng ta không nên đề thất tán mà phải tu tập nuôi dưỡng khí này. Nên nói:

Tài bồi tâm thượng địa
Hàm dưỡng tánh trung thiên

Nghĩa là: Vun trồng mảnh đất tâm,nuôi dưỡng chân tánh sáng như bầu trời…Nếu quý vị nuôi dưỡng khí chất của mình thì đừng có rời Pháp của mình…”

Qua lời giảng của Hòa thượng, ta thấy Pháp bao trùm và điều động khí(Pháp do tâm tạo ), tức tâm điều khiển khí, điều này cũng phù hợp với các môm phái khác như khí công (dùng ý để dẫn khí vào kinh mạch), và tâm cũng ảnh hưởng đến khí vì nó điều khiển khí. Tâm tán loạn thì khí cũng tán loạn nên phải bồi dưỡng mảnh đất tâm . Khi giảng phần này Hòa thượng liên hệ thực tế, Ngài hướng về Đạo tràng mà nói: “Khi tôi đến nhà bếp và trai đường,nghe quý vị nói chuyện như cái chợ, sau đó tôi thấy phòng ngủ cũng như cái chợ. Người mà không biết hạn chế lời nói của mình thì khó có khả năng tu tập. Nếu quý vị không hàm dưỡng tánh khí của mình thì quý vị sẽ không có Pháp”(9) . Điều này có nghĩa là nếu ta bàn chuyện thị phi như ngoài chợ thì Pháp khí sẽ bị đánh mất…Như vậy, Pháp khí phải được nuôi dưỡng bởi chân tâm, tức tâm Phật hay tâm TỪ BI. Do đó , muốn lục dục, thất tình không dậy sóng để bảo vệ chính khí, tránh tà khí xâm nhập, ta phải có tâm TỪ BI . Đây cũng là lý do tại sao các vị chân tu chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt, cũng như không quan tâm đến vệ sinh, an toàn thực phẩm mà vẫn khỏa mạnh.

Tâm TỪ BI giữ được chính khí nên diệt được tà khí giúp con người được khỏe mạnh. Nhưng trong thời Mạt Pháp này, nhất là sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật tạo ra quá nhiều tiện nghi vật chất làm cho dục vọng dâng cao, tâm tán loạn (cơ giới sinh cơ tâm), con người vẫn sống “khỏe”, và thực tế là y học vẫn trị được bịnh,vậy có mâu thuẫn với Phật Pháp ?

Không phải tâm tán loạn là sinh ra bịnh ngay tức khắc, mà phải trải qua một thời gian dài mới thành tâm bịnh,và còn tùy thuộc vào phước đức ở tiền kiếp nên mới có câu
: “ phước chủ may thầy”, mới có người ác vẫn sống thọ . Không ai có thể phủ nhận sự thành công nhất định của y học, nhưng y học chỉ trị bịnh mà không trị tâm, tức trị ngọn chứ không trị gốc nên bịnh nhân chỉ khá trong một thời gian hoặc khá bịnh này lại sinh ra bịnh khác (vì cái gốc tâm bịnh vẫn còn), giống như ta chặt nhánh cây này thì cây sinh ra nhánh khác. Vì sao? Vì gốc rễ vẫn còn. Nếu như sự tiến bộ của y học chữa trị bịnh của con người như Thần Thánh thì bệnh nhân phải càng ngày càng giảm.Trái lại, khoa học và y học càng tiến bộ thì bệnh viện ngày càng nhiều, diệt được bịnh này thì bịnh khác sinh ra... ( cái vòng lẩn quẩn)

Tâm bịnh là do con người tạo ra nên có thể điều trị được, nhưng nghiệp bịnh thì rất khó, thuốc men không có tác dụng. Nghiệp bịnh là quả báo mà mình phải trả, phải gánh chịu, do trong tiền kiếp mình đã hại chúng sinh, nhất là sát sanh. Và bây giờ họ tìm ta để đòi nợ. Họ nhập vào bộ phận nào đó của cơ thể thì bộ phận đó sẽ bị đau, có khi nhập rồi xuất, xuất rồi nhập, liên tục (người ta thường gọi là bịnh giả vờ), nếu vào não bộ thì cho là điên, khùng, (dân gian thì cho là ma nhập). Nợ của người ở thế gian còn có thể trốn tránh được, còn nợ với oan gia trái chủ (vô hình) thì không thể. Phật Pháp giúp ta cách hóa giải nghiệp chướng này, đó là sám hối, làm việc thiện, phóng sinh, giới sát, niệm Phật, trì chú Vãng Sanh, (ăn chay càng tốt) rồi hồi hướng cho oan gia trái chủ (quý vị nên tìm đọc VĂN PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI của HT. Tịnh Không để hiểu rõ và hành trì). Nếu thành tâm sẽ có kết quả tốt (tin thì thật, thành thì linh). Thực ra, ma quỷ cũng là chúng sinh, đều có Phật tánh, nghĩa là điều có tâm TỪ BI, nhưng vì sân hận , oán thù nên chủng tử ác hiện hành trong tâm thức, còn chủng tử thiện thì chìm sâu, nên họ ác với ta. Nếu ta chân thành sám hối và hồi hướng công đức cho họ, làm cho tâm họ được nhẹ nhàng( nhẹ là dương; dương là thiện),Chủng tử thiện có cơ hội huân trưởng và tăng trưởng, họ sẽ có thiện cảm với ta, không còn oán thù (thù trở thành bạn).

Chúng ta sinh ra ở cõi Ta Bà này là do nghiệp, trong đó có nghiệp sát hại chúng sanh nên ai cũng có oan gia trái chủ. Nhưng tại sao chúng lại đến tìm người này mà không tìm người kia? Vì chỉ khi nào phước diệt, họa mới sinh, chúng phải chờ đợi khi có cơ hội, tức là lúc phước ta suy, diệt. Người có phước đức sâu dày (từ kiếp trước hoặc tạo ra ở kiếp này) thì không có một thế lực nào có thể hại được. Do đó, chúng ta cần phải tu hành như không sát sinh, ăn chay, làm việc thiện, niệm Phật để có công đức và phước đức (tu là phước lớn nhất). Vả lại, tu hành chính là “bồi dưỡng mảnh đất tâm, hàm dưỡng tánh trung thiên”, bảo vệ chính khí, diệt tà khí. (ma quỷ cũng là tà khí)

Có một bà lão họ Trương bị bịnh tê liệt tay chân đã ba năm tìm đến HT. Tuyên Hóa xin được trị bịnh. Hòa Thượng nói: “Tôi không hiểu y học! Nếu bà muốn khỏi bịnh, chỉ có thể dựa vào lòng thành, đồng thời ăn chay và niệm Phật, tất sẽ có cảm ứng” Bà nghe lời Hòa Thượng khai thị, qua 100 ngày sau , bà được lành bịnh. Sau đó cả nhà bà đều quy y, dốc lòng làm việc thiện.(10)

Ông Đái Quốc Hiền bị bịnh phổi bất trị. Quá tuyệt vọng, ông cầu Hòa Thượng cứu mạng. Ngài dạy ông chí thành niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, phát nguyện không sát sinh,ăn chay. Ông hoan hỷ tín thọ… Từ đó, ông quy y Tam Bảo, trì chú Đại Bi và không ngừng xưng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát nên ông được lành bịnh như ý nguyện.(10b)

Phương thuốc trị bịnh ở trên là không sát sinh, ăn chay, làm việc thiện, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, hồi hướng công đức… gọi tắt là tâm TỪ BI. Các vị chân tu đã “ thử nghiệm” và đã thành công ngoài sức tưởng tượng. Thuốc đã có sẵn trong tâm, không tốn tiền mua, không tốn công đi tìm, nhưng người sử dụng phải có lòng tin, lòng thành thì mới linh ứng

C-TỪ BI: HÓA GIẢI ĐƯỢC TAI HỌA:

Tai họa của con người gây ra là do nghiệp ác, nghiệp ác dễ làm hơn là thiện nên “phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Nghiêp có cộng nghiệp và biệt nghiệp.

Nghiệp cá nhân, chủ nợ đóng rất nhiều vai: có thể là người nhà, lối xóm, bạn bè, người yêu, quen có , lạ có, có khi là thú vật, ma quỷ... Ta luôn ở trong thế “tứ bề thọ địch”, không biết đâu mà tránh ( “họa phúc vô môn”). Chủ nợ đến để đòi mạng, đòi nợ, gây thương tích, gây khó khăn, nói xấu… nhẹ nhất là ác cảm . Khi nhân gặp duyên thì quả báo xảy ra, có khi không cần một lý do chính đáng nào cả (như một sự va quẹt nhẹ, một cái nhìn, một câu nói đùa cũng xảy ra án mạng). Người ta thường nói sự cố xảy ra như vậy thật là phi lý, nhưng Phật Pháp tìm ra cái lý trong sự phi lý đó, đó là luật nhân quả. Chẳng những giải thích được mà còn có cách hóa giải rất mầu nhiệm.

HT.Huyền Diệu kể một câu chuyện vui (tôi không ghi chép nên chỉ nhớ đại khái): có một bà đến tìm thầy để nhờ ếm bùa hại bọn thanh niên lối xóm, vì chúng thường gây phiền phức cho bà. Thầy nói vui: “Bà muốn tôi giết chúng phải không?”. Bà đáp: “Phải!” (bà không rành về Phật Pháp) . Thầy ân cần giải thích về luật nhân quả và chỉ cách hóa giải hận thù: lạy sám hối. Thầy bảo bà đọc tên từng người rồi lạy sám hối họ trong ba tháng (vì bà có lỗi với họ ở tiền kiếp). Năm sau, thầy về nước, bà tìm thầy cảm ơn và nói: “Thầy nói lạy ba tháng, nhưng mới có tháng rưỡi mà thành công, giờ chúng thương tôi lắm”11). Tâm chúng sinh giống như cái máy thu sóng và phát sóng (tất cả các cảnh giới đều có trong tâm ), nên lời sám hối sẽ đến đúng đối tượng, sự sân hận không còn nữa. Trước đây mỗi lần đụng chuyện với chúng, bà rất giận, vô tình tạo duyên sân hận làm cho chủng tử sân hận trong tâm của chúng tăng trưởng, và huân trưởng nhanh chóng nên oán thù ngày thêm chồng chất (bà muốn giết chúng). Nếu như không hóa giải bằng cách lạy sám hối, thì thảm họa sẽ đến cho cả hai.

Lạy sám hối khi biết được đối tượng rất mầu nhiệm, nhưng chỉ là nhất thời, chứ không phải là phương pháp phòng ngừa. Phòng ngừa mới thực sự cần thiết, vì chúng ta đâu chỉ có một oan gia, trái chủ mà vô số (từ trong nhà ra ngoài phố). Chẳng những oan gia, trái chủ hữu hình mà còn vô hình (ma, quỷ), chúng chờ đợi cơ hội thích hợp, tác động váo tâm thức ta , khiến ta mê mờ, không còn tỉnh táo rồi gây ra tai nạn, hoặc nhập vào một người nào đó để hại ta (như nhập vào người say rượu, say thuốc, nên mới gọi là ma men, ma túy )

Phương pháp phòng ngừa là tu hành (giới sát, ăn chay, làm việc thiện, niệm Phật…) và ngày nào cũng hồi hướng công đức cho oan gia, trái chủ từ vô lượng kiếp đến nay. Nhờ vậy mà oán thù được giải, cuộc sống được an vui . Như đã nói, tu hành cũng chính là vun bồi phước đức, phước đức lớn thì họa không thể hại được.

Họa đo cộng nghiệp (nhiều người cùng tạo nghiệp ác nên cùng nhận quả báo). HT. Hư Vân thuật lại một trận động đất kinh hoàng ở Đại Lý như sau : “Năm này, tôi đang giảng kinh ở Long Hoa Sơn, thì 4 huyện ở phủ Đại Lý phát sinh địa chấn kinh hồn, tại Đại lý là nặng nhất: nhà cửa, thành quách đều nhất loạt sụp đổ không còn gì. Chỉ có chùa viện, bảo tháp là không đổ…Trong cơn địa chấn đất rung chuyển trầm trọng, còn phát sinh ra lửa cháy ngùn ngụt tràn lan. Người ta tranh nhau chạy tránh nạn, thì dưới chân đất bỗng nứt ra, làm họ bị lọt xuống mắc kẹt trong đó, họ cố hết sức trèo lên, nhưng vừa ló được cái đầu thì đất liền khép lại, cắt đầu đứt lìa thân thể họ, nằm mắc kẹt trên đất. Cảnh tượng hãi hùng nhìn giống như người đang sống mà bị hãm trong địa ngục lửa thiêu, thảm đến mắt chẳng dám nhìn.

Mấy ngàn hộ dân trong thành tử nạn gần hết, sống sót rất ít.Trong đó có hai tiệm vàng: tiệm Vạn Xương của họ Triệu và tiệm Trạm Nhiên của họ Dương. Khi lửa cháy đến nhà hai gia đình này thì tự tắt.Chỗ họ ở cũng không bị địa chấn. Nhân khẩu mỗi nhà có mấy mươi người, tất cả đều bình an vô sự . Nguyên do là hai họ này, đời đời ăn chay trường và hay làm phước bố thí nên mới chiêu cảm được quả lành hi hữu như vậy. Ai biết được cũng đều xúc động.”(12). Trường chay và làm việc thiện mới chỉ là một phần của tâm TỪ BI mà vẫn có được sự nhiệm mầu không thể nghĩ bàn.

D- TỪ BI HÓA GIẢI ĐƯỢC SỐ MẠNG

Số mạng chính là luật nhân quả (trong dân gian và thi ca thường gọi là số trời). Đại sư Ấn Quang khuyên những ai tin vào số mạng nên đọc “Liễu phàm tứ huấn”. Đây là tác phẩm rất hay, nói về việc cải số, con người hoàn toàn làm được. Xin tóm lược vài nét chính: Liễu Phàm, họ Viên tên Huỳnh, tự Khôn Nghị, người Giang Nam, đời Minh, sinh năm 1535 mất 1609. Ông gặp Khổng tiên sinh, một nhà tướng số rất nổi tiếng đoán tương lai vận mệnh như : thi ở huyện đậu hạng 14, thi ở phủ hạng71,thi ở Đề Đốc hạng 9, đậu tú tài, làm quan 3 năm rưỡi rồi xin về hưu, mất giờ sửu ngày 14 tháng 8, thọ 53 tuổi, không có con.

Trải qua các kỳ thi ấy, đúng từng chi tiết.Từ đó, ông thối chí (vì biết trước số phận của mình chắc chắn sẽ như vậy). Một hôm, ông gặp Thiền sư Vân Cốc, Ngài giảng dạy cho ông về cách cải số rất hay như: “Mạng do ta tạo (tức luật nhân quả), phước do ta tìm (tức tu hành, làm nhiều việc thiện). Số mạng chỉ chi phối cho những người suốt đời xuôi chiều theo tánh mình, không biết thay đổi mà thôi; còn đối với những người có sự chuyển biến mạnh mẽ thì số mạng không thể chi phối…”Ông hoàn toàn tin phục những lời dạy của Thiền sư. Ông sám hối, phát nguyện làm việc thiện… tinh tấn từng ngày ( mỗi ngày đều ghi sổ), được sự trợ giúp đắc lực của vợ. Sau một thời gian dài, kết quả tốt đẹp mở ra, khác hẳn với lời tiên đoán của Khổng tiên sinh. Ông có một người con trai, đậu tiến sĩ, làm quan lâu dài, thọ 74 tuổi.!(13)

HT. Tịnh Không nói rằng theo tướng số thì Ngài chỉ thọ 45 tuổi(vì cằm ngắn), nhưng Ngài xuất gia thì tuổi thọ tăng lên gần gấp đôi. Năm 45 tuổi chỉ xảy ra một trận đau nặng mà thôi. Ngài còn nói thêm là thầy Lý Bỉnh Nam cũng vậy.

Ông Phan Tế Thời là người rất giàu có ở huyện Song Thành, hai vợ chồng đã quá 40 tuổi vẫn không có con, nên rất lấy làm hối tiếc. Họ rất ngưỡng mộ H T. Tuyên Hóa và thỉnh Ngài chỉ dạy cho việc cầu con, Hòa thượng bảo: “Ông nên làm nhiều việc thiện, sao ông không đem phân nửa tài sản của ông bố thí cho tất cả chúng sinh để tích lũy công đức. Nếu làm được như vậy, tin rằng ông sẽ được mãn nguyện”. Nghe theo lời chỉ bảo, ông bèn phát tâm bố thí, sửa chùa, tạc tượng, cúng dường Tam Bảo, trợ giúp hội từ thiện. Qua năm sau, vợ ông sinh được một bé trai, đặt tên là Thí Đức. Bé này thông minh lanh lợi. Sau khi có con, ông càng tin sâu vào Phật pháp, hằng ngày tụng kinh, niệm Phật, làm việc thiện…(14)

Người xưa nói : “Đức năng thắng số”, “ ở hiền gặp lành”quả thật không sai. Trước đây, chúng tôi có hỏi GS. Giản Chi về thuyết số mạng, thầy nói rằng câu “tam phần nhân, thất phần thiên”( người 3, trời 7)nên sửa là “tứ phần nhân” mới đúng. Lời dạy của thầy rất hay, đề cao sự nổ lực, phấn đấu của con người. Nay, tìm hiểu về Phật pháp, ta lại thấy khả năng của con người chẳng những là “tam, tứ, ngũ…phần”, mà có thể thay đổi tận gốc rễ về “số trời”. Tại sao? Vì khi ta phát tâm TỪ BI,làm việc phước đức, tức là mình đã tạo DUYÊN cho chủng tử TỪ BI(vốn có) trong tạng thức tăng trưởng, huân trưởng, hiện hành trong tâm. Tâm được điều hành bởi chủng tử hiện hành đó. Pháp do tâm tạo, tức cảnh giới bên ngoài đều do tâm cả. Tâm động bên trong (tham, sân, si) thì bên ngoài sẽ động (trong ngoài hợp nhất), cuộc sống sẽ gặp nhiều đau khổ, chướng ngại; nếu tâm thanh tịnh(TỪ BI) thì sẽ có cảnh giới bên ngoài bình yên, may mắn , chiêu cảm được những ước mơ chân chính (tùy thuộc vào công phu tu tập).
Đây là câu chuyện “Ăn mày học cách tạo mạng”: Có một gã ăn mày tên là Kỷ Đại Phúc thường lui tới chòi rơm lễ bái HT. Tuyên Hóa. Gã thỉnh vấn Hòa thượng:“ Tại sao đời này con lại bần cùng như vậy”. Ngài giải thích đạo lý nhân quả ba đời, và dạy: “…Do nhân gì mà đời này chịu cảnh hèn? Là bởi đời trước keo kiệt, không muốn cứu tế người nghèo.” Kỷ Đại Phúc nói: “Con thường tự nghĩ, con đã không làm chuyện gì thiếu lương tâm, mà giờ đây chịu cảnh cùng khốn…,vậy chắc là do đời trước con đã keo kiệt, bủn xỉn, không biết bố thí. Ngài có biện pháp nào cứu vãn cho đời sau này của con không?”. Hòa thượng đáp: “ Quân tử học cách tạo mạng, chỉ cần ông bắt đầu từ đây, nổ lực làm việc thiện, quảng tích âm đức, tức ông có thể tự tạo cho mình một vận mạng mới, vậy có phúc nào mà cầu không được?”...Kỷ Đại Phúc nghe xong rất đỗi vui mừng, phát nguyện…,thỉnh cầu quy y Tam Bảo.

Từ đó về sau, lúc đi ăn xin, miệng ông niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” không gián đoạn. Khi xin được tiền, gạo ông đem tế bần, giúp người . Qua nhiều năm tháng tinh tấn, vào mùa đông năm Dân Quốc thứ 29(1940), ông biết trước ngày giờ vãng sinh, an tường qua đời trong tiếng niệm Phật.(15) Như vậy, ông đã thay đổi tận gốc rễ số mạng (cho dù kiếp sau có được làm vua hay thành tiên cũng không thể sánh với cõi Cực Lạc được)

E- TỪ BI: HÀNG PHỤC ĐƯỢC THÚ DỮ

Trước hết, xin được phép ghi lại lời của Bảo Đăng, tác giả “ VÔ NHẤT ĐẠI SƯ, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM”: “Người đọc cần phải hội đủ lòng tin và dùng tâm trân trọng, chớ nên nói rằng thời buổi khoa học này thì làm gì có các sự việc như vậy, hoặc là chừng nào tôi thấy thì tôi mới tin v.v…Bởi vì đây không phải là cảnh giới của mình, không phải là công đức tu hành của mình (tức là mình tu chưa đạt đến mức như vậy)…Có nhiều người (tại gia lẫn xuất gia) mỗi khi nghe nói ở phương nào đó có một Thượng tọa hay Hòa thượng tu cao, đạt vài ba sự phi thường(mà họ không bao giờ có được) thì họ hoặc bĩu môi,hoặc là cười nhạo…(họ chẳng tin có người đắc đạo mặc dù họ là người có đạo, và đang tu theo đạo)”

HT Thích Thiền Tâm ẩn tu ở Phú An, Đại Ninh, Lâm Đồng, một vùng có rất nhiều rắn độc. Một hôm, sau khi làm vườn xong, Ngài trở vào thì thấy một con rắn quấn đuôi trên cửa, há miệng, le lưỡi, thở khò khè. Ban đầu,Ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng lại nghĩ chẳng lẽ đứng ở ngoài sân hoài, dùng cây đuổi thì gây oán thù. Ngài niệm Phật và nghĩ đến phép quán TỪ BI mà bước vào. Con rắn đánh đu bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ mà không hề cắn. Có hôm, khi Ngài vừa ngủ dậy, đặt chân xuống thì trúng mình con rắn, nhưng nó vẫn không phản ứng… Sau đó, Ngài biết là rắn vào nghe kinh… Ngài đã quy y cho chúng. Đây là loại rắn thần, có khả năng biến hình và nghe được tiếng người . Và, rắn đã hộ pháp cho Ngài…Hòa Thượng viên tịch năm 1992. Ngày khai mộ (21- 12-1992) có đôi kim xà đến viếng mộ, chúng nằm yên trước mộ một lát, rồi cất đầu lên ba lần, nhìn trưởng tử Thanh Nguyệt, sau đó bò vào đám tranh, mất dạng…(Câu chuyện còn dài và có nhiều chi tiết khá thú vị , có ghi hình đôi kim xà).(16)

Và, đây là câu chuyện “Mãnh hổ quy y” với HT Quảng Khâm: “Một hôm như thường lệ, Sư ngồi thiền trong động, bỗng nghe mùi tanh nồng nặc theo gió bay vào, Sư lấy làm lạ. Trong bối cảnh mơ hồ, dường như có vật gì to lớn lần bước vào trong động. Sư mở mắt nhìn kỹ, không ngờ đó là con mãnh hổ…Sư thốt lên: “A Di Đà Phật”, mãnh hổ …kinh hãi, vụt tháo chạy. Sau phút kinh hồn, nó lấy lại tinh thần… từng bước, từng bước tiến vào hang động…Sư nói: “ A Di Đà Phật! Lão hổ đừng sân hận! Oan oan tương báo không bao giờ dứt, ngươi ở đây thì ta sẽ ra ngoài, còn ngươi nhường nơi này cho ta tu hành thì sau khi ta thành đạo, sẽ độ cho ngươi…”. Mãnh hổ nghe lời Sư nói, không biết có hiểu hay không, nhưng nó đứng lại… Thật bất ngờ, mãnh hổ gật đầu như tỏ dấu thần phục…Sau đó nó dắt vợ con đến trước Sư mà đùa giỡn, trình diễn các kiểu múa vờn cho Sư xem, nhiều lần gật đầu như cầu xin việc gì. Sư liền quy y cho chúng”.(17)

HT. Hư Vân kể : “Ngày 17 tháng 11 âm lịch, tôi làm lễ kết giới ở chánh điện. Vào đêm thuyết giới Bồ Tát, có con cọp đến quy y, đại chúng đều kinh hoảng. Tôi thuyết giới cho nó xong, nó hiền lành ra đi”. Câu chuyện này được đệ tử Ngài kể tiếp: “ Mùa đông,năm 1934,Sư khai đạo tràng, các vị quan lớn quý tộc đều dẫn quân lính theo. Đêm ấy, người cháu của Giang Khổng Vân đang đứng trên Tàng Kinh Các bỗng thấy ngoài cổng có hai luồng điện xanh lè, bèn đến gần xem, mới hay là con cọp, ông kêu ầm lên, binh lính giương súng định bắn, Sư vội đến nơi , cọp liền nằm mọp dưới thềm.

Sư thuyết Tam Quy cho nó nghe, dặn hãy vào ẩn trong núi sâu, đừng làm hại người. Cọp khấn đầu ba lần,rồi bước đi, song vẫn ngoái lại với vẻ rất lưu luyến. Từ đó, mỗi năm nó về thăm Sư một hai lần…”-lược ghi-(18)

Răng nanh và móng vuốt của hổ, sói không đáng ngại, chỉ ngại nhất là cái tâm tham (tham ăn) và sân si (hiếu chiến, dã man). Các vị chân tu đã hàng phục được cái tâm tham, sân, si thì chúng rất hiền lành như con hổ trong câu chuyện trên.

Nhờ đâu mà các bậc chân tu hàng phục được? HT. Tuyên Hóa đã giúp chúng ta lời giải đáp qua “Vượt bảy thử thách”(bảy của ải ), khi Ngài thủ hiếu ở mộ phần của mẹ. Chúng tôi chọn ải số 2, đó là ải muỗi. Lời kể có chút khôi hài nhưng lại chứa một bài pháp thâm thúy: “ Ở Đông Bắc vào tháng ba không có muỗi, nhưng không biết sao vào tối hôm thứ hai thủ hiếu, có rất nhiều muỗi bay tới kêu vo ve rất lớn…Tôi vốn có thể đập chúng chết hết, nhưng tôi đang để tang mẹ, làm vậy sẽ có lỗi với mẹ tôi sao ?Được rồi ! Tôi bèn phát tâm bố thí, tôi nói: “ Xin chúng bay cứ việc tha hồ hút máu, tao đãi khách đó!Tôi vừa cởi áo ra, chúng liền bay tới đậu tấp nập trên thân tôi, nhưng chưa chích tôi mũi nào thì tức khắc bay đi. Các vị thấy có kỳ quái không? Từ đó trở đi, tôi ở mộ phần thủ hiếu, không khi nào muỗi đốt. Nhưng khách tới thăm tôi đều bị muỗi chích đốt tứ tung. Họ nói: “ ái da, đâu mà nhiều muỗi thế, sao có nhiều vị bác sĩ bác quá vậy!”…

Tôi nói ra đây, phải chăng giống như chuyện thần thoại? Các vị nghe rồi có thấy buồn cười không? Thật ra, điều này chẳng vui chút nào! Vì ngay lúc đó, nếu tôi không có tâm bố thí…thì chúng dễ gì bỏ qua cho tôi. Lúc đó tôi nghĩ: “Được, ta bố thí máu này cho chúng bay! Chúng bay hãy hút hết máu ta đi, dù có chết nơi đây ta cũng không báo thù chúng bay đâu. Ta không những không báo thù mà nếu thành Phật, ta vẫn sẽ hóa độ cho loài muỗi mòng và làm bạn với chúng bay. Một khi nghĩ vậy rồi tức bọn muỗi làm bạn với tôi, nên dù có đậu trên thân tôi, chúng cũng không nhẫn tâm hút máu của tôi. Các vị xem có phải là do có lực cảm ứng hay không? Nói tóm lại,một khi tôi thật sự phát tâm bố thí là chúng nó liền tha cho tôi… Do chuyện này, nên về sau tôi có cái bút hiệu là”Tỳ Kheo Muỗi”, vì tôi ký tên “Độ Luân” và “ Tuyên Hóa”này có một số người thấy rất đau đầu..” (19)

Hòa thượng đã phát Bồ Đề Tâm, chẳng những đem thân mình ra bố thí, mà còn nguyện độ cho chúng… Đó chính là tâm TỪ BI của BồTát (Con người vì sinh mệnh của mình mà giết hại dã man súc vật để nuôi thân; Bồ Tát vì mạng sống của chúng sinh mà hy sinh thân mạng của mình). Nhờ vậy mà có lực cảm ứng. . Cảm ứng là gì? Có CẢM nên mới có ỨNG (ỨNG là đáp lại, thuận theo ). Nếu mình TỪ BI với chúng, chúng cũng đem lòng TỪ BI đáp lại mình (“ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”), vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tức tâm TỪ BI.TỪ BI có sự mầu nhiệm, siêu việt hơn cả thần thông, vì thần thông chỉ làm hạn chế, hoặc vô hiệu hóa khả năng đối phương chứ không thể biến thù thành bạn được. Nhưng có được cái tâm TỪ BI của các vị chân tu như HT. Thiền Tâm, Hư Vân, Quảng Khâm,Tuyên Hóa để cảm hóa chúng sinh là rất khó vì các Ngài là Bồ Tát, còn ta thì chỉ là Phật tử , còn nhiều tham, sân, si (nên luôn bị muỗi chích). Tuy nhiên, nếu tinh tấn hành trì hạnh TỪ BI, một ngày nào đó, mình cũng có chút lực cảm ứng, nếu không thì Ngài đâu có giảng rõ cho ta như vậy.

LPH04- TỪ BI, KHO BÁU TRONG TÂM CHÚNG TA

F- TỪ BI KẾT NỐI ĐƯỢC VỚI CÁC THẾ GIỚI TÂM LINH

Các thế giới tâm linh cao hơn cõi Ta Bà là các cõi lành, muốn kết nối, ta phải có tâm thiện. Nếu muốn Bồ Tát Quan Thế Âm gia hộ cho mình, thì mình cũng phải là Bồ Tát của chúng sinh khác . HT. Tuyên Hóa nói: “Khi quý vị tu tập thành tâm, thành ý, thì trong người quý vị sẽ phát ra một loại ánh sáng, ánh sáng đó giao cảm với ánh sáng quang minh của chư Phật và Bồ Tát.”(20)

HT.Thích Thiền Tâm, sau khi quyết định từ chức Viện trưởng để ẩn tu, Ngài bâng khuâng không biết đi về nơi nào, Ngài niệm Phật, Bồ Tát, cầu xin gia hộ, chỉ dẫn cho mình một nơi bình an để tu tập cho đến cuối đời. Đêm đó, sau thời khóa trì niệm và nguyện cầu, SƯmơ thấy Thánh chúng dẫn mình gặp QuanThế Âm Bồ Tát…Và nhận được phong thư với mùi hương lạ….Tiếng chuông công phu buổi sáng vang lên, Ngài tỉnh dậy, vội chép lại bài thơ. Kỳ diệu thay! Mùi hương thơm vẫn còn! (nội dung bài thơ chỉ địa danh Phú An, Đại Ninh, và cho biết Ngài hạ lạp 48 năm, thọ 68 tuổi đời )(21).

HT.Huyền Diệu kể: “ Từ khi chim hạc xuất hiện, ngôi Việt Nam Phật Quốc Tự tại Lâm Tỳ Ni trở thành nơi thu hút rất đông du khách đến tham quan…Rồi không biết xuất phát từ đâu mà dân dịa phương đồn với nhau rằng nếu ai ăn được trứng chim hồng hạc sẽ sống được 500 tuổi, còn ăn thịt chim thì thọ 700 năm. Thế là sự sống của những sinh vật đẹp đẽ và hiền lành này bị con người đe dọa…Việc bảo vệ chim hạc khiến tôi tốn kém rất nhiều thì giờ, tiền bạc và nhất là công sức. Tôi vận động chánh quyền địa phương, kể cả báo chí… Chính quyền đã ra một thông báo, ai bắt giữ hơặc săn bắn chim sẽ bị phạt tiền rất nặng, thậm chí có thể bị tù…Thế nhưng, những nổ lực đó đều không đi đến đâu, trứng chim tiếp tục bị mất trộm. Tôi rất tin tưởng sự linh thiêng của thánh địa nơi Đức Phật giáng trần, nên mỗi khi có việc cấp thiết, đều đến nơi này khấn vái. Lần đó, tôi thành kính đi chung quanh trụ đá vua A Dục và khẩn cầu các đấng linh thiêng gia hộ cho tôi có một quyền năng đặc biệt để bảo vệ các con chim hồng hạc. Sau khi thành tâm cầu nguyện, tôi trở về chùa thảo ra thông báo…: Kể từ nay,người nào xâm phạm đến chim hạc sẽ phải nhận hình phạt nặng nề, nếu ăn trứng sẽ bị ghẻ lở trên người, còn ai giết hại chúng thì ba đời bị nạn… Khoảng hai tuần sau , bỗng nhiên, một người thợ bên chùa Nhật Bản và một công nhân tại chùa Việt Nam bị ghẻ lở đầy tay. Thế là cả hai hết sức hoảng sợ bèn đến gặp thầy Nabatame trụ trì chùa Nhật Bản và tôi để thú nhận tội lỗi. Đây chính là những thủ phạm đả ăn cắp trứng chim. Tin này nhanh chóng lan truyền ra bên ngoài. Nhờ vậy mà trình trạng đã đỡ rất nhiều.” (22).

Ngày 18 tháng 4 năm 2012, nhà nước có tổ chức đại lễ cầu siêu tại Trường Sa, gồm 6 tôn giáo, có khoảng 300 người tham dự. Trước khi đi, anh Nguyễn Văn Nhã có nhắn tin cho những Đạo tràng mà anh quen biết và các liên hữu: “Kính thưa quý vị! Tuần lễ từ ngày 18 đến 25, đất nước có sự kiện rất thiêng liêng: Đại lễ cầu siêu tại Trường Sa và biển Đông. Kính mong chư thiện hữu hoan hỷ cùng hướng ra biển Đông cầu nguyện cho âm siêu dương thới…”. Khi về, anh nói thành công ngoài sức tưởng tượng. Chuyến đi bị ảnh hưởng cơn bão số 1, gió cấp 8. Một số vị sư và Phật tử niệm Phật, niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, trì chú, sóng gió liền ngưng lại ( rất kỳ lạ là phía trước con tàu không còn sóng gió, nhưng ở phía sau vẫn còn. Cá heo tung tăng trên mặt nước. Anh nghe đựoc tiếng nói của các hương linh, trong đó có ngươi mất từ thế chiến thứ hai (tức chưa siêu thoát) .Có một viên sĩ quan tán thán: “Nếu như trời yên thì cũng gió cấp 3,nay đang ảnh hưởng bão mà mấy ông làm gió cấp hai rưỡi, hay quá !” Khi làm lễ cầu siêu, bát nhang ở bàn thờ Phật phát cháy( tức có cảm ứng)

G- TỪ BI ĐỘ CHÚNG SINH.

HT. Quảng Khâm hỏi các sinh viên: “ Độ chúng sinh, độ bằng cách nào?”. Ngài tự giải đáp: “ Độ chúng sinh, thật ra không phải là chuyện dễ, chúng ta phải phát xuất từ lòng TỪ BI thì chúng sinh mới nghe theo, họ mới chịu để cho chúng ta độ; nếu họ mà không tin theo thì không có cách gì để độ họ được”(23).Tại sao phải phát xuất từ lòng TỪ BI? Vì TỪ BI có tâm lực rất mạnh, khắc chế được chủng tử tham, sân, si (chính thắng tà), đồng thời tạo duyên cho chủng tử thiện, chủng tử Phật trong tạng thức huân trưởng, tăng trưởng, giống như hạt lúa gặp nước thì nảy mầm, nên họ có thiện cảm(nhờ chủng tử thiện) và tin Phật( nhờ chủng tử Phật). Khi ta tiếp xúc với vị chân tu có tâm TỪ BI, ta cảm nhận được sự an vui, đó chính là sóng trong tâm vị ấy tỏa ra (cỏ ,cây nhiều khi còn hấp thụ được năng lượng này mà nở hoa,xin đọc “ THƠM NGÁT HƯƠNG LAN”, sẽ rõ). Bác sĩ Quách Huệ Trân nói: “Quý vị hãy xem hình của lão HT. Hư Vân, chỉ cần nhìn thần sắc của Ngài, chỉ cần xem phong độ phi phàm của Ngài mà không cần xem truyện ký, chúng ta cũng cảm nhận được tấm lòng của Ngài rộng lớn như thế nào mới có được thần sắc như vậy”, (thần sắc của Ngài chính là tâm TỪ BI tỏa ra, “tướng tùy tâm xuất”). Như vậy, dù không nói ra lời mà Ngài vẫn độ được ta, tức độ mà không độ. (vô vi)

Bác sĩ Quách Huệ Trân kể tiếp : “ Thêm một vị đại đức gần đây nhất là lão HT. Quảng Khâm, mọi người đều xưng tán là “bảo vật” trong Phật giáo… Năm lão Hòa thượng 92 tuổi, tôi có dịp theo Ngài lên núi, Ngài đi ở phía trước từng bước rất vững vàng và nhanh chóng, tôi đi phía sau rất mệt mới theo kịp…khi đi qua một đoạn đường có nhiều chướng ngại, Ngài quay đầu lại nói: “Con phải đi cẩn thận nghen!”. Giọng của Ngài khàn khàn nhưng có oai lực, ánh mắt nghiêm nghị nhưng chứa đựng lòng từ bi vô hạn. Tôi rất hổ thẹn. Bây giờ trên đường đời đã vấp ngã bao lần, đã gặp nhiều chướng ngại, nhớ lại lời Ngài nói thì tự nhiên lệ đẫm ướt mi lúc nào không biết. Có người tưởng Ngài rất huyền bí nên muốn đi “ điều tra” cặn kẽ. Đến khi nghe Ngài nói chuyện hết nửa ngày thì chỉ nghe toàn là những từ ngữ như “niệm Phật”, “đừng ăn thịt” nên trong bụng thầm nghĩ: “Tôi cũng biết nói như vậy, cần gì phải hỏi Hòa thượng”. Thật không sai, ai cũng biết nói như vậy, nhưng chúng ta không ai đã từng trải qua sự tu trì khổ hạnh, công phu chân thật như Ngài; lại không có đủ đức hạnh để cảm hóa người khác. Cho dù có nhiệt tâm để khuyên người,người ta còn chê mình “ nhiều chuyện” nữa. Ngài đã hàng phục được tâm mình, đã hạ thủ công phu rất sâu trong sự tu niệm, nên tự nhiên cảm hóa được hàng vạn người”(24).Thật kỳ diệu, câu nói đơn giản “đừng ăn thịt” lại khiến cho vạn người ăn chay, “niệm Phật” thì có hàng vạn người niệm theo. Do tâm lực đại TỪ BI mà Ngài đã chuyển hóa được cái tâm của Phật tử. Tiếng nói của Ngài thấm vào tâm khảm họ. Chỉ một câu dặn dò đơn giản của Ngài mà BS. Quách Huệ Trân suốt đời không quên.

Hòa thượng không bao giờ nói trước công chúng rằng mình đã làm được những gì. Trong một lần hội ngộ với HT. Tuyên Hóa, như gặp được tri âm, tri kỷ, hai vị đã đề cập đến phần nào những việc mà mình đã làm được. Đây là đoạn đối thoại:

-Độ chúng sinh không chỉ dùng lời nói, mà phải tu đạt đến chỗ vô hình cảm hóa được người, chứ không phải “lấy cái gì đó” để hoằng pháp.

Pháp sư Độ Luân (Tuyên Hóa):

- Đúng vậy, dùng pháp vô vi,không dạy bằng lời .Hiện nay, tôi muốn làm việc gì thì tôi cũng có thể làm được,thí dụ: tôi muốn chỗ tôi đang ở là thành phố SanFrancisco không động đất, thì không bị động, không phải là đất không động, mà do tôi khiến cho đất không động…Khi tôi còn là Sa di có quỷ, thần, rồng, hồ ly đến quy y. Bây giờ, tôi có một số đệ tử người Mỹ, dù tôi có đánh họ, mắng họ, họ cũng không bỏ tôi mà đi

-Tu hành phải tu tới chỗ nói được thì làm được…Còn phần tôi (HT.Quảng Khâm), tôi không nói là tôi đang làm gì cả, người ta thấy tôi hoặc nghe tôi nói một vài câu, họ cảm động; sau khi tôi đến Đài Loan, Đài Loan cũng tương đối được yên ổn.(25)

Khi Ngài viên tịch, Tổng Thống Đài Loan lễ viếng với câu liễn đặc biệt “ĐẠI TỪ BI”, ca tụng sự cống hiến của Ngài đối với dân, với nước (đem lại sự bình yên)



***TẠM KẾT.

Chúng ta không thể nào thấy hết được các bảo vật trong kho báu TỪ BI, những viên ngọc Mani, dù ở ngay trong tim ta, nhưng lại cảm nhận được qua những câu chuyện kể của các vị chân tu đã chứng đắc trong các tác phẩm như: “CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA”, “THƠM NGÁT HƯƠNG LAN” (HT.HƯ VÂN), “CẨM NANG TU ĐẠO VÀ HÀNH TRẠNG CỦA HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM”, “VÔ NHẤT ĐẠI SƯ, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM”…Tác phẩm nào cũng nói về sự mầu nhiệm, ít nhiều mang dấu ấn thần thông. Nếu bạn mải mê yếu tố thần thông thì hãy nghe câu trả lời của đệ tử Ngài Tuyên Hóa với HT. Quảng Khâm:

-Thầy của các ông có thần thông phi thường. Ngài có thường dạy thần thông cho các ông không?
-Thần thông không thể dạy được. Thần thông xảy ra tự nhiên khi tu hành đến mức độ nào đó. Hơn nữa, thần thông không thể giúp chấm dứt luân hồi sinh tử. Đó không phải là mục tiêu tối hậu mà đạo Phật nhắm tới.(26)

Vậy, mục tiêu tối hậu đó là gi ? Đó là thành Phật, tức tâm ĐẠI TỪ BI. Thực ra, những câu chuyện các Ngài kể ra, hầu hết đều nói lên sự mầu nhiệm của tâmTỪ BI như khuyến tấn ta hành trì . Tác giả Trẩn Do Bân viết: “Nếu tín đồ Phật giáo chỉ quan tâm đến việc thầy mình có khả năng thần thông hay không, mà không nhận ra được tinh thầnTỪBI giáo hóa chúng sinh của thầy mình, thì các tín đồ đó nhầm lẫn mục tiêu và không phải là đệ tử chân thật của Phật”(26b).

Kho báu TỪ BI ở trong tâm ,nhưng chúng ta làm sao cho nó hiển lộ ? Kho báu ấy hiển lộ không biết bao nhiêu lần mà tại mình thờ ơ không biết. Nếu bạn giúp cho một người nghèo khổ nào đó một cách thầm lặng, thì ngay trong phút giây ấy, bạn cảm nhận được niềm an vui thánh thiện, đó chính là kho báu đã hiển lộ; nếu bạn thấy cảnh thương tâm mà rơi lệ, đó chính là kho báu hiển lộ; nếu ai có lỗi với bạn mà bạn vẫn vui, đó cũng chính là kho báu hiển lộ. Nếu muốn khai mở kho báu ấy, chúng ta trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, tụng kinh, trì chú (tùy duyên), ăn chay, làm việc thiện hằng ngày, nhẫn nhục,tinh tấn… Một ngày nào đó, cánh cửa sẽ từ từ mở ra. Hãy tin tưởng trở về kho báu của chính mình, đừng mải mê ngắm nhìn “kho báu” của người cho đời mỏi mệt. Đừng trở về khi quá muộn !

SÀI GÒN, MÙA THU GIÁP NGỌ
Lê Phương Hướng


Xin Tri Ân Quý tác giả, dịch giả của những tác phẩm mà chúng tôi dẫn chứng. Nhờ công đức của quý vị mà chúng tôi càng tin sâu vào Phật pháp.


CHÚ THÍCH:

(1) Trang 23, THƠM NGÁT HƯƠNG LAN

(2) Trang115, CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

(3) Tang 12, CẨM NANG TU ĐẠO VÀ HÀNH TRANG CỦA HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM

(4) Trang ,167 GẬY KIM CANG HÉT 2

(5) Trang 109,CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

(6) Trang 145, THƠM NGÁT HƯƠNG LAN

(7) Trang 225, CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

(8) Trang 178, KHAI THI 6, HT. TUYÊN HÓA

(9) Trang 493 ,THỦ LĂNG NGHIÊM, tập 10, HT.TUYÊN HÓA giảng thuật

(10) (10 cool.gif Trang 123 CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

(11) HT. HUYỀN DIỆU giảng tại CLB. KIM NGÂN, Nhà Bè ngày22/6/ 2014

(12) Trang 135, THƠM NGÁT HƯƠNG LAN

(13) Lược ghi theo bản dịch của BAN VIỆT NGỮ, VẠN PHẬT THÁNH THÀNH

(14) Trang 187, CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

(15) Trang 126 -nt-

(16) Trang 307, VÔ NHẤT ĐẠI SƯ, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM, tác giả BẢO ĐĂNG

(17) Trang 274, CẨM NANG TU ĐẠO VÀ HÀNH TRẠNG CỦA HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM

(18) Trang 190, THƠM NGÁT HƯƠNG LAN

(19) Trang 101, CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒATHƯỢNG TUYÊN HÓA

(20) Trang 20, QUÊ HƯƠNG CỰC LẠC, HT.TUYÊN HÓA

(21) Trang 274, VÔ NHẤT ĐẠI SƯ, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM

(22) Trang 49, KHI HỒNG HẠC BAY VỀ, HT. HUYỀN DIỆU

(23) Trang 240 CẨM NANG TU ĐẠO VÀ HÀNH TRẠNG CỦA HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM

(24) Trang75, LẮNG NGHE TIẾNG HÁT SÔNG HẰNG, BS. QUÁCH HUỆ TRÂN (DIỆU ÂM dịch)

(25) Trang 145, CẨM NANG TU ĐẠO VÀ HÀNH TRẠNG CỦA HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM

(26) (26b)Trang 105, 106 THỬ LUẬN VỀ NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA ĐỐI VỚI NỀN PHẬT HỌC.tác giả TRẦN DO BÂN

LPH05- TỪ BI, KHO BÁU TRONG TÂM CHÚNG TA

CỦA TIM CÒN MỘT CHÚT NÀY(ND)
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa đến
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
( Trần Tử Ngang)

Người xưa nói: “ Mặt trời mọc từ phương Đông”, nghĩa là chân lý đến từ phương Đông ( sự hiểu biết về bản chất của vũ trụ thì người phương Đông có nhiều khả năng, còn Tây phương chỉ quan tâm về thế giới hiện tượng) Vì sao? Theo Kinh Dịch, phương Đông thì Dương ở bên trong, bên ngoài là Âm. Theo tính chất Âm Dương,Dương bên trong là nội lực sáng tạo, là trí huệ là tinh thần,(hướng thượng,tâm linh,triết lý có khả năng giải thích về bản chất sự việc, nối kết được với các cõi tâm linh ; Âm bên trong, tức phương vị của Tây phương. Âm thì mờ tối nên không có HUỆ( tức sáng trong tâm);chỉ cóTRÍ(sáng ở đầu), trí thì vô minh vì chỉ biết về hiện tượng vật chất mà vật chất thì giả hợp. Âm thiên về vật chất nên Tây phương thích tìm hiểu khám phá thế giới tự nhiên. Do đó,ít có khả năng khám phá được thế giới tâm linh, ít quan tâm về giá trị tinh thần, họ rất quan tâm thế giới tự nhiên nên giỏi về khoa học kỹ thuật(họ có khả năng khám phá được thân thể của động vật, nhưng không khám phá được tâm hồn nên khổ đau, tai họa của kiếp người vẫn còn nguyên vẹn, chuyên dưới đất chưa xong thì lại lo chuyện trên trời:khám phá sao Hỏa).

Trên sơ đồ phương vị trong Kinh Dịch thì Đông ,Tây đối lập nhau(tổng quát thì như vậy, chứ không tuyệt đối vì trong Âm có Dương; trong Dương có Âm). Nếu biết dung hòa nhau thì hay biết mấy . Đông y cho rằng bịnh là do mất quân bình Âm Dương; trị bịnh là lập lại thế quân bình.Theo triết Đông, thiên nhân tương hợp, một trong tất cả nên cơ thể con người và xã hội, đất trời đều giống nhau: xã hội loạn chính là mất quân bình Âm Dương .Đối với thế tục thì sự quân bình Âm Dương là lý tưởng, xã hội được bình yên; nhưng với việc tu hành hay tu dưỡng thì Âm(vật chất) là một chướng ngại , tâm dính vào vật chất(hưởng thụ) thì tâm bất an, khó vào định. Con đường đi đến giác ngộ là :GIỚI (khổ hạnh)mới vào được Định; Định mới có Huệ, tức chứng đắc, có lục thông ngũ nhãn (khổ thông mới có thần thông,thần thần thông của chánh pháp, khác với thần thông của ma, quỷ)). HT Hư Vân đã nói: “ thân càng khổ thì tâm càng an”. Do đó, người xưa không quan tâm đến vật chất, dù họ có được khả năng siêu việt, biết được bản chất của vật chất là đất,nước,gió, lửa, và do tâm tạo ra .Vì không quan tâm đến vật chất nên cũng không quan tâm đến khoa học kỹ thuật đề khám phá thế giới tự nhiên như Tây phương nên Đông phương lạc hậu.Trong khi đó ,Tây phương lại đăm mê vào lãnh vực này nên họ ngày một tiến bộ. Thời mạt pháp, chúng sinh nhiều nghiệp chướng, chủng tử tham, sân, si hiện hành , thích hưởng thụ tiện nghi vật chất, nên thích văn hóa Tây phương. Họ choáng ngợp,sùng bái, nhắm mắt theo Tây một cách mù quáng .Tại sao? Nếu ta đưa cho trẻ con một viên thuốc đắng chúng sẽ không uống ( vì chúng chưa có nhận thức được về bệnh tật), nhưng cho viên kẹo thì lấy ngay vì kẹo ngọt ngon thỏa mãn được vị giác. Ngày rằm tháng 7, bảo trẻ con vào chùa cầu siêu cho ông bà, chúng không đi, nhưng chỗ nào có cúng cô hồn thì chúng tới ngay vì có bánh kẹo, trái cây, tiền bạc. Người tôn sùng văn hóa Tây phương cũng giống như trẻ con vậy, bất kề họ là ai.

Nguyễn Tường Long, cây bút lý luận của TỰ LỰC VĂN ĐOÀN hô hào: “ theo mới, theo mới, không chút do dự”.Hậu quả là những con người cũ bị đem ra chế giễu,thi sĩ Tản Đà cũng là nạn nhân của họ. Do theo mới không chút do dự mà xã hội thời bấy giờ sinh ra NGỰA NGƯỜI, NGƯỜI NGỰA, XUÂN TÓC ĐỎ, GIÔNG TỐ tràn lan( tất nhiên, đây là một trong những nguyên nhân). Nguyễn Tường Long lấy bút danh là TỨ LY(giờ xấu nhất), không hiểu sao, sau đó,đổi lại là HOÀNG ĐẠO(giờ tốt nhất).Cuộc đời ông lại phù hợp với TỨ LY, chứ không phải HOÀNG ĐẠO.

Sự tôn sùng Tây phương ngày một gia tăng bởi sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật quá nhanh nên văn hóa Việt Nam ta ngày một chao đảo, lung lay tận gốc, đưa đến sự ngộ nhận tai hại: Tây phương hơn ta mọi phương diện, lấy văn hóa của họ làm chuẩn mực để “ phát huy” văn hóa dân tộc.Tiếp thu văn hóa nước ngoài để làm giàu cho văn hóa nước nhà không có gì sai cả nhưng phải biết chọn lọc, chứ không phải là bắt chước. Cái hay của văn hóa Tây phương như bảo vệ môi trường, súc vật(không ăn thịt chó, thịt chim), tôn trọng ngươì già, phụ nữ, trẻ con,làm việc đúng giờ,nghiêm túc v.v.thì không học mà rước về những cái dị ứng làm tổn thương văn hóa dân tộc. Có những lãnh vực mà ta có thể dạy họ được thì không phát huy, có thể hay hơn họ nếu tư tin sáng tạo thì lại ngoan ngoãn học ở họ. Tôi xin nêu ra một vài việc nhỏ nhưng có tính thời thượng như THI HOA HẬU, CA NHẠC , BÓNG ĐÁ(lấy hình nói bóng)

A HOA HẬU, NGƯỜI MẪU:

Người Tây phương thi hoa hậu ,chọn người mẫu thì hợp với văn hóa của họ,nếu không thì đó mới là chuyện lạ, vì hợp với phương vị (theo Kinh Dịch) .Tây phương thì Âm bên trong(Âm thiên về vật chất hơn là giá trị tinh thần); Dương bên ngoài ,tức phần giao tiếp, biểu hiện, là cái “tôi” xã hội( Dương thì phóng khoáng, phô trương…)nên họ thích phô trương thân thể, khoe thân sắc.Trái lại, Đông phương thì Dương ở trong,Âm bên ngoài( Dương ở trong nên trọng giá trị tinh thần, Âm bên ngoài nên kín đáo, không muốn,không thích phô trương vì Âm là che lấp, ngược lại với Dương).

Phương vị Âm,Dương chính là bản sắc văn hóa khu vực, tức Đông phương, trong đó có Việt Nam.Do đó,nếu ta tổ chức thi hoa hậu, người mẫu là không phù hợp,biến Đông thành Tây là làm tổn thương đến bản sắc văn hóa. Nếu cho rằng thế giới ngày càng thu hẹp,ta phải phóng khoáng ,cởi mở. Điều này cũng có lý nhưng phải biết hài hòa Âm,Dương(“ dĩ bất biến ứng vạn biến”), nghĩa là ngoài áo dài truyền thống ,thí sinh nên mặc áo đầm, váy, (biều tượng cho sự dung hòa vì kín không kín, hở không hở). Cởi mở phải có giới hạn nhất định (cởi mở, không phải là cởi quần áo).Nếu mặc áo tắm đứng trước đám đông thì làm tổn thương đến vẻ đẹp(tâm hồn) của người phụ nữ Đông phương( có một nghịch lý đang tồn là nếu có một ca sĩ ăn mặc hở hang thì bị ném đá, bị phạt, còn hoa hậu hở hang hơn nhiều thì lại được tung hô).

Người Việt ta có chiều cao khiêm tốn, tại sao lại lấy chân dài làm chuẩn? Hoa hậu là hoa hậu Việt Nam, ngươi mẫu là người mẫu Việt Nam, Sao không “Việt hóa” đôi chân cho phù hợp .Trang phục áo tắm và chân dài là bắt chước Tây như sáo , như vẹt, không có ý thức. Không hiểu trước khi làm việc gì, người ta có suy nghĩ về sự lợi hại,nên hay không nên , phù hợp hay không ?

Năm 1992,tôi có viết một bài báo về nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam.Lâu quá, tôi không nhớ là mình đã viết gì, nhưng chi tiết khơi nguồn cảm hứng thì còn nhớ rõ:Trong cuộc thi sắc đẹp tại châu Âu, có một thí sinh Việt Nam rất đẹp, duyên dáng với chiếc áo dài , ai cũng nghĩ là cô sẽ đoạt giải, nhưng đến phần mặc áo tắm thì cô xin bỏ cuộc vì không phù hợp với người phụ nữ Việt Nam, khiến khán giả ngỡ ngàng…và ngưỡng mộ .

Các bạn trẻ có biết nghĩa chữ TRINH là gì không? Đây là từ Hán Việt, gồm hai thành phần ghép lại: 1 là chữ THƯỢNG( nghĩa là trên, chữ này tỉnh lược bớt một nét), 2 là bộ BỐI(nghĩa là tiền bạc, viết dưới chữ thượng), có nghĩa là vượt lên trên tiền bạc , suy rộng ra là vượt lên danh và lợi để giữ gìn phẩm hạnh thì gọi là TRINH. Ôi ! một cánh chim non phiêu bạt cuối trời mà vẫn giữ được nét đẹp của người con gái Việt Nam,còn tại quê nhà thì làm điều ngược lại !

Đứng trên đạo lý thế gian mà luận, ta thấy rằng người đẹp thì rất ít, người sinh ra đời với ngôi sao xấu thì rất nhiều.Không ai muốn mình sinh đời là xấu, cha mẹ cũng không muốn con mình đẻ ra là xấu. Nay thi hoa hậu, tôn vinh vẻ đẹp trời cho với một ít người, vô tình làm rất nhiều người chạnh lòng, có hợp đạo lý hay không ? Vui được sao ?Vả lại, sắc đẹp có giáo dục được ai đâu, không phải là tấm gương sáng cho đời noi theo. Phía bên trong “sắc đẹp” thì bất tịnh: phân ,nước tiểu, đờm, nếu hơi thở không còn thì hôi thúi gấp trăm lần con chuột chết (vì xác lớn hơn).Tôn vinh để lảm gì? Để bán vé ư ?

Đứng trên kinh điển mà nói thì đây là đại họa cho nhiều người. SẮC gắn liền với DỤC(vì sắc mà dục phát sinh). Con người(và súc vật)vì sắc dục mà sinh ra và cũng vì sắc dục mà chết, trôi mãi trong luân hồi lục đạo, nặng thì ở địa ngục, nhẹ hơn chút thì làm kiếp súc sinh…HT Tuyên Hóa nói: “ Quý vị phải thận trọng, chớ có gần gũi sắc dục; gần gũi sắc dục tất sinh họa. Qúy vị hãy ghi nhớ rằng mình hãy hết sức cẩn thận, đừng bao giờ mê đắm sắc tướng”. Và, đây là lởi Phật dạy: “Hãy thận trọng, đừng nhìn ngó nữ sắc, cũng đừng nói năng với họ”(Phật dạy người xuất gia )

Lời của Phật là chân lý, các vị chân tu không bao giờ dám vọng ngữ.Như vậy, các thí sinh hoa hậu đã tạo nghiệp vì để cho nhiều người nhìn ngó. SẮC tức DỤC, nên lòng tà nổi lên, dẫn đến hậu quả không tốt .Đừng nghĩ đơn giản rằng thí sinh sống đàng hoàng sau khi đoạt giải là không có tội, điều này chỉ đúng với luật pháp chứ không đúng với luật nhân quả . Xin thí dụ đơn giản ở một lãnh vức khác: Nếu có người nào giới thiệu cho nhiều người rằng ăn con vật này bổ thận, con vật kia bổ gan… thì tội rất lớn dù mình không trực tiếp sát sinh .Nếu có hai người nghe theo mình thì tội mình gấp đôi, nếu có 10 người thì tội mình gấp 10. Vì sao? Vì số lượng con vật bị giết tăng gấp 10 lần. Hoa hậu cũng vậy, nếu vì sự hở hang của mình mà có 10 người sinh tà tâm… thì tội mình tăng gấp 10 lẩn. Nhà tài trợ , người tổ chức cũng bị, mà bị nặng hơn vì tạo điều kiện cho nhiều thí sinh phô diễn thân sắc .Một vị chân tu đã nói : “sống, tức là tạo nghiệp” Vì vậy, chúng ta nên thận trọng.Lỡ tạo nghiệp rồi thì cũng đừng bi quan, thành tâm sám hối, nghiệp chướng sẽ tiêu tan(tin thì thật, thành thì linh). Sám hối không khó, thành tâm mới thật là khó(99% chưa phải là tâm chí thành)

Người đẹp hay không đẹp đều do trời sinh như dân gian đã nói (oan cho ông trời), nhưng thật ra là do luật nhân quả, nghiệp báo.Nếu kiếp trước thường dâng hoa cúng Phật với lòng cung kính, vẻ đẹp tươi của hoa trong những phút giây thánh thiện đó in sâu vào tạng thức(tức chủng tử), đó chính là chủng tử thiện, gặp duyên lành được tái sinh làm người đề hưởng phước, chủng tử đó hiện hành tác động vào thai nhi mà tạo ra nét đẹp tươi như hoa.Đây là vẻ đẹp của người có thiện căn: trang nghiêm và phúc hậu( “tướng tùy tâm xuất”), người đẹp này sẽ không thích thi hoa hậu, người mẫu( ngoài ra, những người đẹp phúc hậu cũng có thể tiền kiếp thường đem lại niềm vui, làm rạng rỡ khuôn mặt cho người,hoặc không ganh tỵ với người đẹp hơn mình…).Những người mà “trời bắt phải đẹp” là để trả quả(vì mình đã lỡ tạo ác nghiệp), người xưa gọi là “ hồng nhan bạc phận”.Dù là “được”đẹp hay “ bị” đẹp thì tu dưỡng, làm việc thiện, tích lũy âm đức đều tốt cả: người có số tốt sẽ tốt hơn, bền lâu hơn, nếu tu tập thì đó là một lợi thế; người có số không may thì sẽ tiêu trừ nghiệp chướng,hoặc được giảm nhẹ(tốt nhất là sám hối, hồi hướng công đức cho oan gia trái chủ để họ không đến tìm mình)

B CA NHẠC

Năm 1986, cánh cửa thị trường đã mở, văn hóa Tây phương bắt đầu tràn lan .Cái tốt khó học, cái xấu dễ tiếp thu. Phim ảnh bạo lực, đồi trụy, cùng với dòng nhạc trẻ đã xâm nhập vào khá dễ dàng .Nhạc trẻ đã tạo ra một trận cuồng phong ,làm mưa, làm gió trên nền ca nhạc nước nhà một thời gian . Đó là một dòng nhạc lai căng, mất gốc, làm tổn thương đến bản sắc văn hóa dân tộc. Nó tạo ra một lớp ca sĩ ảo(không có chất giọng), một lớp nhạc sĩ có chút kiến thức về nhạc lý nhưng lại không hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ Việt(vì không có ai dạy họ).Một trong những lý do là sùng ngoại,mặc cảm tự ti về sự lạc hậu của mình nên choáng ngợp với nền văn minh Tây phương,không hiểu về sự khác nhau của các nền văn hóa…

Trước khi bàn về sự mất gốc của dòng nhạc trẻ. Chúng tôi xin sơ lược về bản sắc văn hóa Việt Nam,và sự thể hiện của bản sắc này trong ngôn ngữ :

- Thưa thầy! Bản sắc của văn hóa Việt Nam là gì?

Giáo sư Giản Chi đáp:

-Tình cảm đậm đà.

Chúng ta biết rằng bất cứ dân tộc nào trên thế giới cũng đều có tình cảm cả,nhưng phải công nhận rằng tình cảm của dân tộc Việt Nam ta rất đậm đà(ưu và khuyết cũng do đây mà ra).Chỉ cần tìm hiểu qua tiếng Việt là nhận thấy ngay.Thí dụ đơn giản về cách xưng hô: Mỹ, Anh dùng ngôi thứ nhất và thứ hai là I/ you; người Việt thì theo cảm xúc mà xưng hô.Thể hiện tình cảm trân trọng: ông(bà)/ tôi, chúng tôi; thương yêu :anh/ em; ghét(hoặc quá thân): tao/ mày;thể hiện tình cảm gia đình:cha(mẹ)/con, ông (bà)/ cháu, anh(chị)/em; với gia tộc : cô, bác ,chú ,thím .dì, dượng, cậu, mợ/cháu v.v.Ngoài ý nghĩa của từ ngữ, còn có những hư từ,từ láy…Đặc biệt, ta còn dùng âm thanh để biểu cảm, và chúng ta có đến 6 thanh(6dấu)là dấu sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã , dấu ngang(tức không dấu) .Đây chính là bản sắc văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ Viêt.Nhờ đó mà tiếng Việt uyển chuyển, mềm mại(dễ luyến láy), ngọt ngào, cảm xúc và có sẵn yếu tố nhạc trong ngôn ngữ , trong khi ngôn ngữ các nước khác thì khô, cứng,hầu như chỉ có lên giọng, xuống giọng.

Trước đây,Giáo sĩ Tây phương sang ta truyền giáo, họ rất ngạc nhiên khi nghe người Việt nói: “Người Việt nói như chim hót”,nghĩa lả tiếng Việt có nhạc điệu một cách tư nhiên.Nếu người sáng tác không nhận biết điều này,cứ đem yếu tố nhạc lý bác học, phức tạp của Tây phương vào khi sáng tác thì sẽ thất bại ngay .Vì sao? Vì “ vẽ rắn thêm chân”.Tiếng Việt đã có sẵn nhạc trong đó,chỉ cần dùng nhạc lý đơn giản để ghi lại cảm xúc là đủ, là phù hợp, vì sự đơn giản của nhạc lý không làm mất đi 6 thanh (tức 6 dấu) giúp cho 6 dấu phát huy tác dụng biểu cảm về mặt âm thanh .Nhạc lý phức tạp,hoặc dòng nhạc nào không phù hợp , hoặc bất cứ yếu tố nào mà làm mất đi các dấu,khiến cho âm thanh trở nên lơ lớ, khô cứng, xương xẩu, đều không hợp tai người Việt .Thí dụ đơn giản: Có một nhạc sĩ, tên H, xuất thân từ trường lớp,hay chỉ trích nhạc “ sến”(đơn giản về nhạc lý như bolero, êm tai, dễ hát, rất phù hợp với ngôn ngữ Việt), ông viết cả mấy trăm ca khúc nhạc “sang” nhưng tác phẩm của ông lại chết yểu ngay khi mới sinh(dù ông là người có điều kiện để phổ biến), trong khi đó, nhạc “sến”vẫn trường thọ, sống khỏe, sống mạnh.Có lẽ ông ta có kiến thức về nhạc lý mà không hiểu bản sắc ngôn ngữ Việt Nam, nên làm cho lời ca xương xẩu, khô cứng, trắc trở, chói tai,rất khó ca. Ông thiên về lý hơn là tình nên không có xúc cảm với những tác phẩm hay trước 1975. Nếu có, ông sẽ ngộ ra rằng những tác phẩm hay, vượt thời gian, đều đơn giản về nhạc lý, có vần điệu hòa hợp êm ái,rất dễ ca , và hầu như tác giả không qua trường lớp(nhạc thì không có sang, có sến ,không có mới ,không có cũ... chỉ có hay và dở mà thôi)

Về mặt âm thanh, bản sắc của ngôn ngữ Việt Nam là ĐƠN ÂM và có SÁU THANH. Nếu tiết tấu quá nhanh, thì đơn âm sẽ trở thành đa âm, các dấu sẽ không thể phát huy tác dụng, lời ca sẽ khô cứng, lơ lớ giống như ngôn ngữ đa âm .Nếu ca sĩ nào thích dòng nhạc này(nhạc trẻ thời trang) thì nên hát theo ngôn ngữ của nước đó, đừng ép tiếng Việt thành tiếng nước ngoài. Vẫn biết nhạc thì có nhanh ,có chậm,nhưng nhanh phải trong giới hạn của đơn âm,nhanh như ca khúc “Hòn vọng phu”(1 và 3) là mẫu mực. Nhanh phải hợp với nội dung. Như “Mẹ yêu”(Phương Uyên) khá nhanh nên phản tác dụng,vì lòng mẹ êm ái như làn gió nhẹ đùa mặt hồ , sao lại đem cơn bão cấp 10 thổi vào. Tình cảm thuộc về Âm, nhất là tình mẫu tử thì phải chậm. Ngoài ý nghĩa biểu cảm của ca từ, phải nhờ sự biểu cảm của âm thanh, tức 6 dấu (phải hát chậm thì các dấu mới phát huy được sự biểu cảm) .Việc chọn nhạc của cô đã sai về cơ bản. Xin được nói thêm : Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ rất nổi tiếng,rất tài hoa, nhưng khi ông sáng tác nhạc phẩm “ Huyền thoại người con gái tên Thi” (trước 1975) thì bị chỉ trích. Lý do là: một chuyện tình quá bi thương mà tiết tấu hỏi nhanh (tình thì buồn mà nhạc không buồn).Dường như trời sinh ra người nhạc sĩ tài hoa này là để viết nhạc vui).

Nên nhớ rằng nhạc Việt hay là do nhiều yếu tố, trong đó 6 dấu góp một phẩn rất lớn( hãy nghe lại một bản nhạc hay, bạn sẽ cảm nhận được điều này(ca sĩ Thu Hiền… đã thăng hoa được 6 dấu) . Có thể ví 6 dấu trong ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam như chân con cua, nếu bẻ chân, cua sẽ chết. Nhạc trẻ đã bẻ chân nó một các vô tư, không thương tiếc( nhận xét chung là như vậy, nhưng trong Âm vẫn có Dương, vẫn có một số bài hát khá dễ thương )
Một đặc điểm nổi bật khác của ngôn ngữ Việt trong thi ca là GỢI hơn là TẢ? Tại sao ?Như đã trình bày ở trên, Đông phương thì Dương bên trong( Dương là nội tâm , là tinh thần, là tâm hồn …được giữ bên trong) ; Âm ở bên ngoài, tức phần tiếp xúc, bộc lộ, diễn đạt,mà theo tính chất thì Âm là kín đáo,là đơn giản, là hình tượng…)nên thiên về gợi hơn là tả; gợi thì dùng hình tượng hơn là lý trí(trái với Tây phương, Dương bên ngoài nên thích phô trương,rõ ràng, phức tạp, thiên về tả nên hay dùng lý trí hơn là hình tượng) Như vậy, ta thấy nghệ thuật Đông phương sâu lắng hơn Tây phương trong lãnh vực nghệ thuật, nếu hiểu nghệ thuật là quy luật của tình cảm.Tại sao? Vì tình cảm khó mà tả hết được bởi nó quá mênh mông, sâu thẳm nên phải gợi, để dòng cảm xúc của người thưởng ngoạn tự tuôn trào,chảy ra , hoặc cảm nhận bằng sự hình dung. Người nghệ sĩ có tài chính là biết cách khai thông dòng cảm xúc .Thí dụ đơn giản: Lòng mẹ thì quá bao la, ngôn ngữ trần gian thì chật hẹp, không thể tả hết được nên nhạc sĩ Y Vân mới dùng hàng loạt hình ảnh: biển Thái Bình, đồng lúa chiều , làn gió đùa mặt hồ, tiếng sáo diều để giúp ta hình dung.Tuy nhiên, không phải là cứ đem hình ảnh vào thơ ,vào nhạc là thơ hay, nhạc hay mà phải biết chọn lựa,biết diễn đạt, nghĩa là phải có cái nhìn của họa sĩ, chọn cái thần, cái hồn của hình ảnh, phải có năng khiếu văn chương để diễn tả. Vì vậy, muốn trở thành một nhạc sĩ sáng tác đâu phải dễ dàng. Nhạc sĩ Phạm Duy nhìn người mẹ hiền bằng tâm hồn của họa sĩ, diễn đạt của người có năng khiếu văn chương,rồi dùng âm nhạc để ghi lại nên làm rung động lòng người qua bao thế hệ.Đây là hình ảnh mẹ và cũng là nghệ thuật của phương Đông, của Việt Nam:NGÔN NGỮ CỦA HÌNH TƯỢNG: “ Mẹ lần mò ra trước ao, mắn áo người xưa ngỡ trong giấc mơ. Tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ”, “ Cánh tay êm tựa mái đầu, ôi bóng hình từ bao lâu còn in dấu sắc màu”, “chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai,hiu hắt tiếng bà mẹ cười, vỗ về nồi cơm ngô đầy”.

Ngôn ngữ hình tượng không những chỉ diễn đạt về tình cảm mà còn giúp ta suy tư về cuộc đời , triết lý… , điều mà lý trí cũng không thể giải thích hết được. Đây chính là nghệ thuật tượng trưng, đặc điểm nổi bật trong thi ca cổ điển. “Con thuyền không bến”( Đặng Thế Phong) là tác phẩm kinh điển của nghệ thuật tượng trưng hiện đại( vì không có tính ước lệ, tức cảnh không thật) , cảnh vật ở tác phẩm này là cảnh hiện ra trước mắt, nó được tác giả thu vào tim nên có thần, có hồn( rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên là 1 trong 4 yếu tố của văn chương lãng mạn- theo giáo sư Hà Như Chi-) ,“ Con thuyền không bến”chính là bức tranh thủy mạc được vẽ bằng âm nhạc, vừa cổ điển , vừa hiện đại(lãng mạn), có nhiều ý nghĩa, tùy theo sự cảm nhận của người nghe . Có thể đây là thân phận của một tình yêu , hay thân phận của kiếp người trong cõi đời vô định…

Nhạc trẻ, đúng như tên gọi của nó: trẻ người non dạ, họ đã xây một lâu đài trên cát(vì không thấm được vào tim), nó ( nhạc và ca sĩ) giống như sao chổi, tuy có ánh hào quang , nhưng hào quang đó chính là lớp bụi khổng lồ,phản chiếu ánh sáng mặt trời(theo khoa học ), tồn tại trong một thời gian rất ngắn. Người lớn thì rất sợ nhưng trẻ con thì lại thích xem. Do đó, cơn bão nhạc trẻ đã biến thành áp thấp nhiệt đới (“vật cùng tất biến”).
Nếu đem những đặc điểm của ngôn ngữ Việt Nam như đơn âm, 6 thanh, giàu hình tượng, gợi hơn là tả để thẩm định nhạc trẻ ,ta sẽ thấy họ bị “việt vị” quá rõ(tiếc là trọng tài không thổi phạt). Chúng tôi không hề có ác cảm với dòng nhạc(vì nó vô tội), nhưng rất dị ứng với những người không có năng khiếu sáng tác, không hiểu biết về bản sắc ngôn ngữ Việt; sáng tác quá nhanh, như mì ăn liền,ca từ nhảm nhí,nhạc thì trắc trở,khô cứng,khó ca, khó nghe, khó cảm(lẽ ra,với những dòng nhạc khó Việt hóa, ta nên đắn đo,cân nhắc và thử nghiệm trước khi phổ biến). Nhạc chính là sự rung động, thổn thức tận đáy lòng rồi ngân lên thành điệu ,thành dòng nhạc và người ta ký âm lại để trở thành tác phẩm, chứ không phải chọn dòng nhạc rồi bắt ca từ “ chui” vào trong đó, và đó chính là thợ nhạc. Nghệ sĩ sáng tác cần phải biết chờ đợi nguồn cảm hứng đến với mình,thi sĩ Hồ Dzếnh gọi là PHÚT LINH ( “Phút linh cầu mãi không về…”), nếu không đến thì coi như mình chưa đủ duyên vậy .Chúng tôi cũng không hề ác cảm với ca sĩ nhạc trẻ nhưng lại dị ứng với các “ngôi sao”: có người hát thì thào như không có hơi, có người phát âm không rõ, tiếng được, tiếng mất, có người gầm thét, có người la hét,người Việt không hề biểu đạt tình cảm như vậy( trước năm 1975,ở miền Nam, muốn trở thành ca sĩ thì điều kiện tiên quyết là phải có chất giọng ngọt ngào hay âm sắc đặc biệt, không hề có giọng ca khô khan,chát chúa mà thành ngôi sao được).Dường như nhạc thời trang, “thời thượng” cố ý làm cho tiếng Việt giống như tiếng nước ngoài( khô cứng, lơ lớ, xương xẩu), để chứng minh rằng mình tiến bộ, theo kịp trào lưu thế giới !

Đêm qua, tôi thấy một giấc mơ: Ông Thánh Đặng Thế Phong, người tạo cho đời “Giọt mưa thu”,đã rời trần gian, bỗng hiện về, tìm đến chốn thiên thai , uống ly rượu đào cùng ông Tiên Văn Cao. Hai vị ngồi nghe chú tiểu đồng Cao Minh gợi lại ca khúc “Bến xuân” . Ông Thần Phạm Duy ở gốc đa, quá vui khi nghe tiếng hát từ Bồng Lai vọng về,liền sai cô cháu gái là Ngọc Hạ lên đồi thổi lại khúc nhạc chơi vơi. “Quê hương ơi! Bóng đa ôm đàn em bé… những con trâu lạnh trên đồi mằn mộng gì, chờ đợi tôi thổi tiếng sáo chơi vơi”.Có Tiên, có Thánh, có Thần nên ông Hoàng Bolero Trúc Phương, sống lưu vong trên mảnh đất quê hương hơn 20 năm , rất tự tin bèn đón chiếc “Tàu đêm năm cũ” trở về.Trong một “Chiều cuối tuần”, có những ông già U60, U70, U80, cùng con cháu đến sân ga chào đón và hát lên rằng: “ Còn tôi trong mơ, còn tôi đợi chờ, thì dù xa xôi, tôi vẫn là của người”.
Ông Hoàng trầm ngâm,rồi nói rằng ta cầu mong cho nhạc “thời thượng” giãy chết ,chớ đừng chết thật,vì nhờ có bóng đêm ta mới quý ngọn đèn dầu, nếu nhạc “thời thượng” không còn thì bolero cũng sẽ mất…Đây là di chúc của ta: muốn tồn tại thì cần có đối lập.(không có Âm, tức sẽ không có Dương)

Dân tộc ta trải qua 1.000 năm nô lệ , 100 năm bị đô hộ, 20 lệ thuộc nhưng văn hóa dân tộc vẫn không bị đồng hóa vì vẫn giữ được Hồn dân tộc, đó là một ngôn ngữ êm ái, ngọt ngào, giàu nhạc điệu và hình tượng( có người nói ngôn ngữ Việt là một đặc ân của thượng đế ban tặng cho người Việt), làm sao mất được vì ngay từ thuở còn nằm nôi, mẹ hiền đã rót vào tim con một chất sữa ngọt qua làn điệu dân ca: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, mẹ hiền ru những câu xa vời”( à…à…ơi tiếng ca ru hời !-NV-).
BÓNG ĐÁ
Tôi rất thích triết Đông, nhất là cách nói ngược của Phật và Lão: ĐẠI tức TIỂU, THỊ tức PHI ,HỮU tức VÔ, TỬ tức SINH ,SẮC Tức KHÔNg…nhờ đó mà ta mới hiểu được hai mặt của một vấn đề. Vì vậy, khi người ta nói “thánh”thì tôi lại nói quỷ.
Bóng đá thế giới,bóng đá châu Âu, bóng đá Anh đã và đang là thần tượng, là khuôn vàng, thước ngọc, làm sao có thể nói NGƯỢC lại được? Nếu chúng ta tự tin vào triết Đông(đúng tức là sai, hay tức là dở, thần tượng tức là tầm thường…) và tự tin vào chính mình, tất sẽ nói ngược không mấy khó khăn; nói ngược mà không ngang.
Khi hai đội tuyển quốc gia thi đấu ,họ đều chào cờ và hát quốc ca của nước mình, vì bóng đá không chỉ là môn thể thao đơn thuần mà còn tượng trưng cho màu cờ sắc áo, tài năng của dân tộc. Thế nhưng, họ lại mướn HLV nước ngoài, điều này rất mâu thuẫn. Ai cũng biết thắng hay thua phần lớn là do HLV trưởng,vị này giống như vị nguyên soái thống lĩnh ba quân ngoài chiến trường. Nếu chúng ta hỏi một học sinh cấp 2 rằng chiến thắng Đống Đa được chỉ huy bởi ông tướng người Tây, người Nhật thì có đáng tự hào, có đáng tiêu biểu cho sức mạnh, tài trí của dân tộc không? Chắc các em nói là không, lý do đơn giản: ông tướng không phải là người Việt. Việc mời H.L.V nước ngoài là tự nhận đất nước mình không có bậc hiền tài.Vậy có gì phải tự hào, hãnh diện(nếu chiến thắng ). Cũng may là quốc kỳ không biết nói năng:
Quốc kỳ mà biết nói năng
Thì VFF hàm răng không còn
Nhưng,nếu trách VFF thì oan lắm, vì ông thầy mình (bóng đá Tây phương) làm như vậy, anh Cả Nhật Bản, anh Hai Hàn Quốc, anh Ba Thái và cả khu vưc từng mướn HLV nước ngoài,có ai nói gì đâu? Cái sai lâu ngày trở thành cái đúng và không ai để ý. Ta biết rằng người Tây Phương(Phần Âm bên trong) thiên về vật chất,ít quan tâm về giá trị tinh thần, với họ là kết quả đạt được một cách cụ thể, nhanh chóng mới có giá trị ,nên nền văn minh của họ là văn minh lượng( còn văn minh Đông phương là văn minh phẩm, thiên về tinh thần). Lẽ ra chúng ta dạy họ mới đúng, trái lại , cả khu vực đều bắt chước cái sai của họ. Tại Sao? Bị choáng ngợp bởi nền khoa học kỹ thuật, cứ nghĩ là lãnh vực nào của họ cũng hay cả. Mê hào quang, mê thần tượng mù quáng dễ dẫn đến sai lầm, ngô nghê . Ông Nguyễn Hiến Lê có nêu ra một câu chuyện khá thú vị về một tên lính Đức Quốc Xã, vì quá ngưỡng mộ Hitler, anh ta hỏi mọi người rằng không biết Hitler có đi cầu không? Với anh ta, thần tượng này là thánh nên không có phàm tục.Chính vì tôn sùng quá đáng làm cho ta thấy quỷ là thánh .Xin đừng cười anh lính ngây thơ này vì biết đâu mình cũng vậy. Mê thì mờ, bất cứ ai, kể cả trí thức…( thí dụ: quá mê người yêu thì không còn thấy cha mẹ).

Xin trở lại chuyện sân cỏ. Năm 1982, danh thủ Võ Thành Sơn giã từ sân cỏ, nhà báo C.T.(nhà bình luận bóng đá được ví như cây đa, cây đề) đã viết: “Sơn không có chút gì để so sánh với Johan Cruyff, nhưng Sơn và Joahn Cruyff có nét giống nhau, đó là sự giã từ sân cỏ vẫn còn nét hào hùng ”. Sơn là ai? Johan Cruyff là ai? Sơn là cựu trung phong hay nhất của tuyển miền Nam, sau 1975 ,anh vẫn tiếp tục chơi bóng(tiếc là anh hay bán độ). Sơn là cầu thủ hay toàn diện( đá được cả hai chân, đánh đầu, đi bóng , chuyền bóng đều tốt, lại có cú “lật bàn đèn” điệu nghệ).Có lần xem bóng đá nghiệp dư ở sân Tao Đàn, tôi hỏi anh Hồ Thanh Cang, cựu thủ quân tuyển miển Nam: “ Sơn và Cù Sinh, ai hay hơn”, anh đáp mà không cần suy nghĩ: “ Sơn hay hơn nhiều, hậu vệ đá sao, nó đá cũng được, trung phong chỉ cần vậy thôi” . Còn John Cruyff là danh thủ người Hà Lan rời sân cỏ 1974 ( trước năm 1975 , truyền hình Sài Gòn không có truyền hình trực tiếp bóng đá châu Âu như bây giờ, nghĩa là ông C.T chưa thấy danh thủ này đá bóng, nhưng ông lại đem ra so sánh.Cụm từ “không có một chút gì” thật là đau xót như một sự xúc phạm.

Thế nhưng,khi đội Hải Quan thi đấu với đội tuyển quân đội Cộng Hòa Dân Chủ Đức, vị HLV Đức phát biểu sau trận đấu: “Nếu có một đặc ân, tôi sẽ mang cầu thủ số 7 về nước”( Nguyễn Hoàng Minh, tức Minh Nhí).
Tại sao người nước ngoài thì khen cầu thủ Việt,người trong nước lại chê một cách thậm tệ? Người Tây phương thường tôn trọng sự thật, còn ta thì giàu trí tưởng tượng , lại mặc cảm tự ti, nếu quá vọng ngoại thì chính trí tưởng tượng đó khiến ta có ảo tưởng rằng Tây phương là thiên đàng,nên ta không có chút gì để so sánh với người cõi trên( Xin được mở rộng thêm một ý nhỏ: Chúng ta sống ở cõi Ta Bà bất tịnh, không có chút gì để so sánh với cõi Tiên, nhưng nếu tu hành chân chính,đúng chánh Pháp,thì khi nói Pháp, Tiên sẽ xuống nghe)

Chỉ khi nào chúng ta tự tin, nhìn thẳng vào sư thật, thấy được cái sai,cái dở của người thì ta mới thật sự tiến bộ. Nếu muốn có một nền bóng đá vững mạnh thì hãy tìm ra cái dở, cái hạn chế của bóng đá Tây phương, đừng làm theo họ. Bóng đá cũng là nghệ thuật; nghệ thuật thì thiên hình vạn trạng, là sáng tạo, có thể đi đường tắt, chứ không phải là bắt chước, không phải là y sao bản chính. Chúng tôi xin nêu ra những cái sai, cái dở,cái hạn chế của bóng đá Tây phương:

SAI lẦM TRONG ĐÀO TẠO:

Sân cỏ châu Âu là nơi để cho các lực sĩ điền kinh đua tốc độ, với sức mạnh giả tạo(sẽ nói về sức mạnh ảo ở phần sau ), là nơi biểu diễn của những con người gỗ, vì họ đem khoa học kỹ thuật để huấn luyện nghệ thuật không đúng cách.Xin nêu ra một vài nhận xét:

LỪA BÓNG :

Họ cho các em lừa bóng qua các cột mốc,hoặc con đường đã định sẵn, mới nhìn vào thì thấy rất bài bản, nhưng thật ra, đó là sai lầm vì sẽ tạo ra con người gỗ.Tại sao? Vì nó tạo cho các em quán tính( qua trái rồi qua phải, lặp đi lặp lại) , quán tính thì giết chết phản xạ tự nhiên(nhất là khi còn nhỏ tuổi).Không có đối thủ trước mặt thì phản xạ không phát huy .Tập như vậy mà không trở thành người gỗ mới là chuyện lạ(cầu thủ Tây phương dùng sức rướn để lừa bóng qua người, chứ không phải là nhờ sự mềm dẻo,khéo léo của đôi chân người có phản xạ tốt, và sự mền mại khéo léo mới chính là nghệ thuật). Một nhà bình luậnTây phương đã nói: “ Các ngôi sao bóng đá Brazil(có lẽ là những thế hệ trước)là những cầu thủ VỈA HÈ”.Đúng vậy, ở lứa tuổi thơ, họ thường hay chơi bóng ở vỉa hè, nghĩa là lừa bóng qua con người trước mặt nên phát huy được phản xa .Ngày nào cũng lừa, quên cả giờ giấc, sức khỏe. Phản xạ được phát huy mỗi ngày , thời lượng “luyện tập” lại gấp nhiều lần hơn so với các học viện bài bản,nếu họ không có kỹ thuật lừa bóng điêu luyện, không trở thành ngôi sao thì đó mới là chuyện lạ.
Tại sao HLV người Đức lại thích cầu thủ Minh Nhí? Vì cầu thủ này lừa bóng rất hay. Anh rất thấp mà thường đi bóng qua cầu thủ cao hơn mình cả 3 tấc, Do đâu mà anh có khả năng như vậy? Thuở nhỏ, anh chơi bóng ở “ sân bóng” miệt vườn tại Đồng Tháp(chứ không qua trường lớp) trước khi đến với đội Hải Quan,nhờ vậy mà có phản xạ rất tốt và trở thành ngôi sao. Tại sao Công Phượng lại có khả năng lừa bóng rất hay? Công Phượng có tố chất, đăm mê, đặc biệt là chơi bóng từ khi tuổi còn thơ. Bà Hoa, mẹ cháu nói rằng người “thầy” đầu tiên của Phượng là Khoa, anh của Phượng. Hai anh em dẫn trâu ra đồng rồi thì chơi bóng với nhau .Trong cái rủi có cái may. “Nhờ”sinh ra trong gia đình nghèo ở quê, cha mẹ ít quan tâm đến việc học, sức khỏe(theo y học) nên cháu có cơ hội chơi bóng thoải mái với bạn bè .Khi đến với Hoàng Anh,thì cháu có 6, 7 năm “thâm niên” lừa bóng qua đối tượng con người, phản xạ tự nhiên phát huy tối đa( nhất là tuổi thơ, chân còn mềm, dễ tập) Nhờ cái vốn “trời cho”mà Phượng nổi tiếng là cầu thủ đi bóng hay nhất , chứ không phải là do Hoàng Anh- Arsenal đào tạo . Vì sao? Nếu do học viện này ,thì tại sao các cầu thủ khác không lừa bóng được như Phượng, dù họ cũng có tố chất tốt.Suy rộng ra , tại Anh quốc, Arsenal chỉ đào tạo ra “ chân gỗ”( có cầu thủ nào của họ có thể sánh được với cầu thủ vỉa hè Brazil).Ngoài ra, ta có thể nói rằng Tuấn Anh, tuy có tố chất, tài hoa nhưng lại con nhà bác sĩ, có bác sĩ nào lại chịu đề con mình chơi bóng ngoài đường, quần áo bụi bặm… nên phản xạ không phát huy tốt như Phượng, cái hay của cầu thủ này là khả năng chuyền bóng tấn công hơn là đi bóng .

Visitor Map

web stats
Bản Đồ Hành Chánh Ba Tri
Photobucket Photobucket
Không Ảnh Thị Trấn Ba Tri
Photobucket
Photobucket