Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2020

Về BTH-LƯỢC SỬ TỈNH BẾN TRE 08

 LỜI GIỚI THIỆU



BTH vừa nhận được tài liệu viết tay dày 42 trang, về Lược Sử Tỉnh BẾN TRE của Ông Phan Văn Lít, một Cựu Học Sinh Trung Học Công Lập Kiến Hòa thế hệ 1959.

Trước đây BTH có giới thiệu Nghệ Nhân PHAN VĂN LÍT, người có tầm hiểu biết và nghiên cứu công phu về HÒN NON BỘ qua 2 địa chỉ dưới đây:




Nay qua tài liệu về Lược Sử Tỉnh BẾN TRE, chứng tỏ ngoài tình yêu quê hương của một người con Bến Tre, ông còn muốn đóng góp một nghiên cứu công phu có dẫn chứng xác thực dựa vào tài liệu của các sử gia, các luận án bậc đại học về miền đất quê hương 3 dãy cù lao yêu quí của chúng ta.

Chúng tôi Nhóm Chủ Trương, Nhóm Quản Trị và Nhóm Điều Hành trang mạng www.bentrehome.net cám ơn, trân trọng công trình biên soạn của anh.

BTH sẽ đưa dần dần lên Diễn Đàn .


Thay BTH: NhàQuê, Jan 12, 2014




QUOTE



Để tiện đối chiếu, trước khi vào phần LƯỢC SỬ TỈNH BẾN TRE, xin được Sơ Lược "9 Đời Chúa và 13 Vua Triều Nguyễn" trong khoảng Lịch Sử hình thành và an định tỉnh Bến Tre từ Trịnh-Nguyễn Phân Tranh --- Nam Tiến --- Chiến Tranh Pháp-Việt --- Pháp Thuộc. Đồng thời cũng Sơ Lược các Triều Đại Chân Lạp chủ cũ của phần đất Nam Kỳ.

A- Chín (9) Đời Chúa NGUYỄN:

1- NGUYỄN HOÀNG (Chúa Tiên) Sinh 28-8-1525. Băng 21-5-1613. Vào Thuận Hóa đóng dinh tại Ái Tử năm 1558. Miếu hiệu: Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế.

2- NGUYỄN PHƯỚC NGUYÊN (Chúa Sãi) Sinh 16-8-1565. Băng 19-11-1635. Lên ngôi 1613. Miếu hiệu: Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế.

3- NGUYỄN PHƯỚC LAN (Chúa Thượng) Sinh 13-8-1601. Băng 19-3-1648. Lên ngôi 1635. Miếu hiệu: Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng Đế.

4- NGUYỄN PHƯỚC TẦN (Chúa Hiền) Sinh 18-7-1620. Băng 30-4-1687 Lên ngôi 1648. Miếu hiệu Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế.

5- NGUYỄN PHƯỚC TRĂN (Thái ?) (Chúa Nghĩa) Sinh 29-1-1650. Băng 7-1-1691. Lên ngôi 1687. Miếu hiệu: Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế.

6- NGUYỄN PHƯỚC CHU (Chúa Quốc) (Minh Vương) Sinh 11-6-1675. Băng 1-6-1725. Lên ngôi 1691. Miếu hiệu: Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế.

7- NGUYỄN PHƯỚC THỤ (Chú, Thú, Trú ?) (Ninh Vương). Sinh 14-1-1697. Băng 7-6-1738. Lên ngôi 1725. Miếu hiệu: Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng Đế.

8- NGUYỄN PHƯỚC KHOÁT (Võ Vương) Sinh 26-9-1714.Băng 7-6-1765. Lên ngôi 1738. Miếu hiệu: Thế Tông Hiếu Võ Hoàng Đế.

9- NGUYỄN PHƯỚC THUẦN (Định Vương) Sinh 31-12-1753. Bẳng ?-?-1777. Lên ngôi 1765. Miếu hiệu: Duệ Tông Hiếu Định Hoàng Đế.


B- Mười Ba (13) Vua Triều NGUYỄN:

1- NGUYỄN PHƯỚC ÁNH (Vua GIA LONG) Sinh 8-2-1762. Băng 3-2-1820. Lên ngôi 1802. Miếu hiệu: Thế Tổ Cao Hoàng Đế.

2- NGUYỄN PHƯỚC ĐẢM (Vua MINH MẠNG) (MỆNH?) Sinh 25-5-1791. Băng 20-1841. Lên ngôi 1820. Miếu hiệu: Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.

3- NGUYỄN PHƯỚC MIÊN TÔNG (Vua THIỆU TRỊ) Sinh 16-6-1807. Băng 4-10-1847. Lên ngôi 1840. Miếu hiệu: Hiến Tổ Chương Hoàng Đế.

4- NGUYỄN PHƯỚC HỒNG NHẬM (Vua TỰ ĐỨC) Sinh 22-9-1829. Băng 19-7-1883. Lên ngôi 1847. Miếu hiệu: Dực Tông Anh Hoàng Đế.

5- NGUYỄN PHƯỚC ƯNG ÁI (Vua DỤC ĐỨC) con nuôi vua Tự Đức, Sinh 11-2-1853. Băng 24-10-1884 (bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế bắt đem giam và chết vì bị bỏ đói). Lên ngôi (17-7-1883 đến 20-7-1883) Vua 3 ngày. Miếu hiệu: Cung Tôn Huệ Hoàng Đế (Vua Thành Thái truy tôn năm 1892)

6- NGUYỄN PHƯỚC HỒNG DẬT (vua HIỆP HÒA) Sinh 1-11-1847. Băng 29-11-1883 (bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết ép uống thuốc độc). Lên ngôi 30-7-1883. Miếu hiệu: Vua bị phế nên không có miếu hiệu.

7- NGUYỄN PHƯỚC ƯNG ĐĂNG (Vua KIẾN PHÚC) con nuôi vua Tự Đức. Sinh 12-7-1869. Băng 31-7-1884 (bị đầu độc ?) Lên ngôi 2-12-1883. Miếu hiệu: Giản Tông Nghi Hoàng Đế.

8- NGUYỄN PHƯỚC ƯNG LỊCH (Vua HÀM NGHI) Sinh 3-8-1871. Băng 4-1-1943 (bị Pháp đày và mất tại Alger). Lên ngôi 2-8-1884. Miếu hiệu: Vì xuất đế nên không có miếu hiệu.

9- NGUYỄN PHƯỚC ƯNG BIỆN (Vua ĐỒNG KHÁNH) Sinh 19-2-1864. Băng 28-1-1889. Lên ngôi 19-9-1885. Miếu hiệu: Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế.

10- NGUYỄN PHƯỚC BỬU LÂN ( Vua THÀNH THÁI) Sinh 14-3-1879. Băng 20-3-1954. Lên ngôi tháng 1-1889 đến 12-9-1907. Bị Pháp đưa ra quản thúc ở Cap Saint Jacques Vũng Tàu) đến năm 1916 đày qua đảo Réunion. Sau 31 năm bị đày, năm 1947 được trở về quê hương và chết tại Sài Gòn. Miếu hiệu: Vì bị đày nên không có miếu hiệu.

11- NGUYỄN PHƯỚC VĨNH SAN (Vua DUY TÂN) Sinh 19-9-1900. Băng 25-12-1945 (Chết vì tai nạn máy bay rớt ở vùng Bangui, Trung Phi). Lên ngôi 5-9-1907 đến 20-11-1916 (bị đày đến đảo Réunion). Miếu hiệu: Vua bị đày không có miếu hiệu.

12- NGUYỄN PHƯỚC BỬU ĐẢO (Vua KHẢI ĐỊNH) Sinh 8-10-1885. Băng 6-11-1925. Lên ngôi 18-5-1916. Miếu hiệu (?).

13- NGUYỄN PHƯỚC VĨNH THỤY (Hoàng Đế BẢO ĐẠI) Sinh 22-10-1913. Băng 31-7-1997 tại Paris, France.
Lên ngôi 8-1-1926 đến 30-8-1945 thoái vị.
Cố Vấn Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Từ 1-7-1949 đến 23-10-1955 Quốc Trưởng Quốc Gia Việt Nam và bị truất phế .
Bảo Đại lưu vong tại Pháp từ 1955 đến năm 1997.
Miếu hiệu: không có.


C- Sơ Lược Các Triều Đại CHÂN LẠP:

(1431 - 1863)

Tóm lược vùng đất Chân Lạp do các chúa Nguyễn thu phục từ năm 1623 đến 1683. Vương quốc Campuchia viết theo Hán Việt là Chân Lạp, Cao Miên .

- Vua ANG CHANG (1516 - 1567)

- Vua SATHA (? - ?). Lên ngôi 1594.

- Vua CHEY CHETTHA I (? - ?) Trị vì từ 1586 -1593.

- Vua CHEY CHETTA II (? - 1628). Năm 1620 cưới Công Nữ NGỌC VẠN con của chúa Nguyễn Phước Nguyên và cho chúa Nguyễn đặt trạm thu thuế tạiPrei Nokor (Sài Gòn).

- Vua PONHEA TO (?- ?) Trị vì từ 1629 đến 1630.

- Vua PONHEA NU (? - ?) Trị vì từ 1630 đến 1640.

- Vua ANG NON (? - ?) Trị vì từ 1640 đến 1642.

- Vua PONHEA CHAN I (? - ?) (Nặc Ong Chân) Trị vì từ 1642 đến 1659.

- Vua BATOM RÉACHEA (1658 - 1672).Tên So con của Công Nữ NGỌC VẠN

- Vua ANG CHE (? - ?) (Nặc Nôn).

- Vua ANG CHEY (? - ?) (Nặc Ông Đài).

- Vua ANG SAUR (? - ?) (Nặc Ông Thu). Hiệu la`CHETTHA IV Lên ngôi ở Oudong.

- Vua ANG NON (? -?) (Nặc Ông Non, Nộn ?). Con trai thứ của Công Nữ NGỌC VẠN làm Phó Vương ở Sài Gòn.

- ÊM (tướng Chân Lạp) (? - ?) Êm nhường cho chúa Nguyễn Phước Chu 3 vùng đất Prey Kôr (Sài Gòn), Kâmpeâp Srêkatrey (Biên Hòa)và Bà Rịa .

- Vua ANG EM (? - ?) (Nặc Yêm).

- Vua SATHA II (? - ?) (Nặc Tha). Năm 1732 nhượng 2 vùng đất Mesa (Mỹ Tho) và Long Hôr (Long Hồ) cho chúa Nguyễn Phước Trú.

- Vua ? (? - ?) (Nặc Nguyên). Năm 1756 dâng 2 vùng đất Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) cho chúa Nguyễn Phúc Khoát.

- Vua THOMONO RÉACHEA (? - ?) Nặc Nhuận năm 1757 hiến 2 pủ Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu) cho chúa Nguyễn Phúc Khoát .

- Vua ANG TONG (? - ?) Nặc Tôn (Nặc Ông Tôn ?) dâng 2 vùng đất Tầm Phong Long (Châu Đốc, Sa Đéc) và 2 quận Tầm Đôn và Xuy Lạp . Năm 1759 Nặc Tôn dâng thêm 5 phủ: Hương Cúc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh cho Mạc Thiên Tứ.







BẾN TRE xưa - KIẾN HÒA nay

(1623 - 1975)


Quê em hai dải cù lao
Có dừa ăn trái, có cau ăn trầu

(Câu đố Bến Tre)





1- ĐỊA DANH BẾN TRE XƯA


Địa danh Bến Tre xưa thuộc vùng đất của người Thủy Chân Lạp có từ lâu đời qua các truyền thuyết như sau:

a- Tên làng Sốc-Tre của người Miên xung quanh trồng nhiều tre và ghe thuyền thường xuyên cập bến để chở tre nên gọi là Bến Tre .

b- Năm 1757chúa Võ Vương sáp nhập cù lao Minh và cù lao Bảo vào dinh Long Hồ, lập bên hữu ngạn rạch Bến Tre cái trạm để kiểm soát ghe thuyền và đánh thuế . Trạm nầy gọi là Bến thuế (Trước năm 1945 là Bến Lỡ chạy dài từ tiệm rượu đến bến tắm ngựa) của Sốc-Tre (Srok treay của người Chân Lạp, treay có nghĩa là cá nhưng người Việt nói treay thành tre và hiểu nghĩa loại cây tre chứ không hiểu nghĩa là cá) nên gọi là Bến Tre .

c- Cũng có thuyết vùng Bến Tre người Chân Lạp gọi là "Kompong Ruuisei", người Pháp dịch là "Berge des Bambous" Bến Tre





Theo bản đồ phân định địa giới tỉnh Bến Tre cho đến đầu năm 1948, Bến Tre chỉ có: cù lao Bảo và cù lao Mịnh Phía Bắc giáp tỉnh Mỹ Tho được chắn ngang con sông Ba Lai . Phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp tỉnh Trà Vinh lấy con sông Cổ Chiên làm ranh giới và phía Đông giáp biển Nam Hải .

Theo thống kê năm 1903 tỉnh Bến Tre có 4 600 mẫu giồng, 16 500 mẫu vườn và 86 000 mẫu ruộng . Ngoài ra còn có 4 000 mẫu dừa nước và 42 706 mẫu rừng hoang . Tổng cộng 154 606 mẫu đất của hai cù lao Minh và cù lao Bảo

Về BTH-LƯỢC SỬ TỈNH BẾN TRE 07

 *- Cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn




Hơn 300 năm trước, vùng đất phía Nam của Đại Việt thuộc Phù Nam và Thủy Chân Lạp. Năm Canh Thân 1620, tình cảm hai quốc gia Việt-Miên khắng khít lúc chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1563-1635) gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Miên Chey Chettha II (?- 1628)

Trong sách Đế quốc Khơme viết "Nhà vua mới lên ngôi Chey Chettha II liền xây một cung điện ở Oudong, nơi đây ông long trọng cử hành lễ cưới một công chúa con vua An Nam . Bà nầy rất đẹp, chẳng bao lâu ảnh hưởng mạnh đến nhà vua . Nhờ bà, một sứ đoàn An Nam đã xin được phép Chey Chettha II lập thương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở chính nơi ngày nay là Sài Gòn" (1). Công Nữ Nguyễn Phúc Ngọc Vạn, con gái thứ 2 của chúa Nguyễn Phúc Nguyên . Bà trở thành Hoàng Hậu nước Chân Lạp "Somdach Prei Peccac Vodey Prea Vorcac Ksatay"

Năm Quí Hợi 1623, sứ đoàn chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở tại Prei Nokor (Sài Gòn) để thu thuế - Chúa cũng điều đình với vua Miên cho lập một dinh điền tại Mô Xoài (gần Bà Rịa) để lưu dân Việt vào khai phá trồng trọt . Khi Chey Chettha II mất năm 1628, vùng đất Prei Nokor bao gồm Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa đã có nhiều dân Việt đến sinh sống

Biến cố tháng 4 1672 của nước Cao Miên, Nặc Ông Nôn xin chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620 - 1687) sai cai cơ đạo Nguyễn Dương Lâm và tham mưu Nguyễn Đình Phái đem 2 cánh quân đánh Nặc Ông Đài ở Nam Vang và phá được đồn Sài Gòn .

Nặc Ông Đài thua chạy rồi chết ở trong rừng, con trưởng của em Nặc Ông Đài là Nặc (Ông) Thu được lập lên làm chánh quốc vương, cai trị nước Cao Miên, Nặc (Ông) Non làm phó vương trú ở Sài Gòn (2) và phải nạp cống hàng năm.

(Địa danh Sài Gòn được Lê Quí Đôn ghi trong Phủ Biên Tạp Lục năm 1776 là địa phương đã có từ năm 1672 . Hai chữ ..... đọc theo Hán Việt là Sài Côn, đọc theo Nôm là Sài Gòn . Ngày 11-4-1861 Thống đốc Louis Adolphe Bonard (1805 - 1867) ký nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn)

Năm Kỷ Mùi :hun: 1679 có quan nhà Minh là Tổng trấn đất Long Môn (Quảng Tây) Dương Ngạn địch, phó tướng Hoàng Tiến cùng tổng binh 3 châu Cao Lôi Liêm, Trần Thượng Xuyên, phó tướng Trần An Bình, không chịu thần phục nhà Thanh đem hơn 50 chiếc thuyền và 3 000 quân xin làm dân Việt .

Chúa Hiền muốn khai hoang đất Chân Lạp bèn cho một nhóm do Trần Thượng Xuyên vào ở Bàn Lân xứ Lộc Dã (tức Đồng Nai thuộc Biên Hòa). Nhóm thứ hai do Dương Ngạn Địch xuống đất Cù Úc (Me-Sa) Mỹ Tho của Thủy Chân Lạp, lập ra 9 trường, lập ấp khai khẩn làm ăn và nạp thuế

Năm Canh Thân 1681, Mạc Cửu (1655- 1736) quê ở Phủ Lôi tỉnh Quảng Đông (Trung Hoa) vốn là một thương buôn trên đường biển qua Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai, cũng không chịu thần phục nhà Mãn Thanh chạy sang cư ngụ ở đất Chân Lạp. Thấy phủ Sài Mạt có nhiều thương buôn qua lại, nên ông mở sòng bạc, lấy tiền chiêu mộ lưu dân lập thành 7 thôn: Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá, Luống Cày, Hương Úc, Cà Mau, Màng Khảm (tương truyền đất Màng Khảm có người Tiên thường hiện trên sông nên đặt tên là Hà Tiên) .

Nhờ có viên quan Chân Lạp nổi loạn, chúa (Hiển Tông) Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) chiếm giữ ba vùng đất Sài Gòn, Biên Hòa và Bà Rịa.

" Có viên quan Chân Lạp tên Êm nổi loạn, nhờ chúa Nguyễn giúp quân lính và đã hứa là sẽ nhường các tỉnh Prey Kôr (Sài Gòn), Kâmpeâp Srêkatrey (Biên Hòa), Bà Rịa để đền đáp .
Năm 1699, Êm đem quân Việt theo sông Mekong tiến lên đến Kompong Chnang, nhưng bị đẩy lui, trở về ba tỉnh nầy, Êm bị giết. Nhưng nhân đó, chúa Hiển Tông đã công khai chiếm đất ấy, đặt quan cai trị" (3)

Năm Mậu Dần 1698, chúa sai Nguyễn Hữu Kính làm Thống Suất vào thiết lập nền hành chánh tại Chân Lạp . Ông lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, đặt Biên Hòa làm Trấn biên dinh, Gia Định làm Phiên trấn dinh và Sài Gòn đổi làm huyện Tân Bình . Mỗi dinh đều đặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục . Lại chiêu dân từ Quảng Bình vào để lập thôn ấp và khai khẩn đất hoang .

Năm Mậu Tý 1708, Mạc Cửu đem dâng 7 xã thôn cho Minh Vương và được chúa phong chức Tổng binh giữ đất Hà Tiên

Năm KỷMùi 1731, có Sá Tốt người Ai Lao di cư ở Chân Lạp xúi dục người Chân Lạp nổi lên giết người Việt vùng Cầu Nam rồi xuống đánh cướp Gia Định. Chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Trú (có sách viết Chú, Thú ? (1697 - 1738) sai Thống Suất Trương Phước Vĩnh đem quân dẹp loạn . Cha con vua Miên là Nặc Yêm, Nặc Tha sợ tội xin tình nguyện dẹp giặc và nhiều lần Nặc Tha dùng kế mới giết được giặc Lào .

Sau cuộc đánh dẹp Sá Tốt thành công, năm Canh Thân 1732, chúa Ninh Vương buộc Nặc Tha nhượng 2 vùng đất Me-Sa (Cù Úc ?) (Mỹ Tho) và Long Hor (Vĩnh Long). Vùng đất Long Hor chúa đặt châu Định Viễn dinh Long Hồ thuộc Gia Định . Vùng đất Me-Sa chúa vẫn giữ nguyên trạng .

Năm Giáp Tý 1744, chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1714 - 1765) sửa sang phép tắc, định lại triều phục và chia nước ra làm 12 dinh

Đất Chiêm Thành chia ra 9 dinh và đất Chân Lạp chia ra 3 dinh thuộc Gia Định phủ
1- Trấn Biên dinh (Biên Hòa)
2- Phiên Trấn dinh (Gia Định)
3- Long Hồ dinh (Vĩnh Long)

Năm Quí Dậu 1753, Võ Vương sai Nguyễn Cư Trinh làm Thống Suất đem quân sang đánh Nặc Nguyên .

Năm Ất Hợi 1755, Nặc Nguyên bị đánh bại bỏ chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ (1706 - 1780) dâng thư lên Võ Vương xin chuộc tội .

Năm Bính Tý 1756, Nặc Nguyên xin dâng 2 vùng đất Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) và được chúa cho cải thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ thuộc phủ Gia Định

Về BTH-LƯỢC SỬ TỈNH BẾN TRE 06

** - Lược sử vùng đất Bến Tre qua các Triều đại



Năm Đinh Sửu 1757, vua Cao Miên là Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận xin hiến 2 phủ Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu) để được Võ Vương phong làm vua Chân Lạp . Sau đó Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh giết chết để cướp ngôi . Võ Vương sai quan Thống Suất Trương Phúc Du đem quân sang đánh giết Nặc Hinh . Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy qua Hà Tiên được Mạc Thiên Tứ xin chúa lập Nặc Tôn làm vua Chân Lap. Nặc Tôn bèn dâng vùng đất Tầm Phong Long (Châu Đốc, Sa Đéc) cùng 2 quận Tầm Đôn và Xuy Lạp ( thuộc tỉnh Vĩnh Long sau này) cho chúa Nguyễn

Nặc Tôn dâng thêm 5 phủ Hương Cúc (Kompongchom), Cần Bột (Kampot),Trực Sâm (Chưng Rưm), Sài Mạt (Cheal Meas) và Linh Quỳnh (Vùng duyên hải từ Sơre Ambel đến Peam) để tạ ơn Mạc Thiên Tứ .Mạc Thiên Tứ đem dâng cho chúa Nguyễn và được chúa cho nhập vào Hà Tiên để cai quản .



"Tháng 2 năm Đinh Mùi 1847, Vua Thiệu Trị phong cho Nặc Ông Đôn được làm Cao Miên Quốc Vương và giao trả 5 Phủ nầy lại cho Vua Miên" (Nguyễn Cư Trinh, Sãi Vãi, Lê Ngọc Trụ-Phạm Văn Luật sao lục và chú thích, Sài Gòn1969, trang 49 và bản đồ)



Năm Kỷ Mão 1759, chúa đặt 5 đạo Giá Khê (Rạch Giá) làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, đạo Đông Khẩu ở Sa Đéc, đạo Tân Châu ở Tiền Giang và đạo Châu Đốc ở Hậu Giang đều thuộc dinh Long Hồ .

Cuối đời Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát đã thu phục của Chân Lạp toàn vùng đất phía Nam để sáp nhập vào bản đồ nước Đại Việt .

Vì thế chiến lược cần phòng thủ lâu dài và chắc chắn, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767) và Du chánh hầu Trương Phúc Du xin Võ Vương dời dinh Long Hồ lên xứ Tầm Bào, địa phận ấp Long An thôn Long Hồ (tỉnh Vĩnh Long) . Dinh Long Hồ trước tiên đóng ở Cái Bè (Mỹ Tho) cũng gọi là Cái Bè dinh (năm 1808, Gia Long thứ 7 thuộc vùng đất An Bình Đông, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường)

Năm Nhâm Thìn 1772, Duệ Tôn Thánh Hoàng Đế Nguyễn Phước Thuần (1753 - 1777) năm thứ 7 chúa sai quan trấn Gia Định lấy đất Mỹ Tho lập thành Trường Đồn đạo đặt chức Cai cơ, Thơ ký để cai trị .

Năm Kỷ Hợi 1779, Đại Nguyên Soái Nguyễn Phúc Ánh (1762 - 1820) đặt tên cù lao Minh và cù lao Bảo là tổng TÂN AN thuộc châu Định Viễn dinh Long Hồ phủ Gia Định . Cùng năm dinh Long Hồ được dời đến cù lao Hoằng Trấn tại Bãi Bà Lúa .

Năm Canh Tý 1780, Nguyễn Phúc Ánh xét thấy Bãi Bà Lúa quá xa nên cho dời lỵ sở về Long Hồ thôn và lấy lại tên cũ là dinh Long Hồ.

Năm Nhâm Tuất 1802, Thế Tổ Cao Hoàng Đế hiệu Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) đổi phủ Gia Định làm trấn Gia Định .

Năm Quí Hợi 1803, Khâm định châu địa đồ triệt bổ địa giới dinh Long Hồ làm dinh Hoằng Trấn.

Năm Giáp Tý 1804, Gia Long đặt quốc hiệu Việt Nam, dinh Hoằng Trấn cải tên là dinh Vĩnh Trấn

Năm Mậu Thìn 1808, Gia Long thứ 7 ngày 12 tháng giêng, dinh Vĩnh Trấn đổi tên thành trấn Vĩnh Thanh. Thăng trấn Gia Định làm Gia Định thành gồm có 5 trấn: Phan Yên trấn, Biên Hòa trấn, Định Tường trấn, Vĩnh Thanh trấn và Hà Tiên trấn . Thăng 3 tổng Vĩnh Bình, Vĩnh An và Tân An làm huyện



An Nam Đại Quốc họa đồ của A. J. L. Taberd ấn hành năm 1838, nhưng vẽ Nam Kỳ trước năm 1832 vì còn tên trấn Vĩnh Thanh, Gia Định phủ là tên xưa đến Gia Long đã đổi tên là Gia Định thành thống lãnh 5 trấn . Riêng Châu Đốc trấn (?) năm 1757 chúa Võ Vương đặt làm đạo Châu Đốc, Gia Long đặt tên Châu Đốc Tân Cương và Minh Mạng sáp nhập vào tỉnh An Giang.

Năm Canh Ngọ 1810, Gia Long thứ 9 đặt thêm huyện Vĩnh Trị .

Năm Quí Dậu 1813, châu Định Viễn đổi thành phủ Định Viễn và các tổng thăng thành huyện: Vĩnh Bình, Vĩnh Định, Vĩnh An và Tân An .
Huyện Tân An gồm tổng Tân Minh (cù lao Minh) có 72 thôn và tổng An Bảo (cù lao Bảo) có 63 thôn 1 trại .

Tên các thôn trại được ghi vào sổ địa bạ triều Nguyễn

a- Tổng Tân Minh (Cù Lao Minh):

1- Thôn An Bình 2- Thôn Thanh Tịnh 3- Thôn Bình Trung 4- Thôn Thanh Hòa 5- Thôn Tân Nhuận 6- Thôn Vĩnh Khánh 7- Thôn Bình Phượng 8- Thôn Bình Long (mới đặt) 9- Thôn Lộc Hòa 10- Thôn Vĩnh Hội 11- Thôn Vĩnh Thuận 12- Thôn Long An 13- Thôn Tân Nhân 14- Thôn Tân Cù 15- Thôn Khánh Hòa (mới đặt, trước là An Mỹ) 16- Thôn Tân Phú Đông 17- Thôn Trung Mỹ 18-Thôn Mỹ Sơn 19- Thôn Tân Nghĩa 20- Thôn Thanh Long 21- Thôn Tân Thông 22- Thôn Thanh Sơn 23- Thôn An Hòa 24- Thôn Bình Trạch

25- Thôn An Thái 26- Thôn Cẩm Sơn 27- Thôn Trường Lộc 28- Thôn Tân Thành 29- Thôn Thanh Thủy 30- Thôn Bình Thanh 31- Hai thôn Tân Lương, Bình Chính 32- Thôn Thanh An 33- Thôn Phú Thịnh 34- Thôn Tân Quý 35- Thôn Bình Hợp 36- Thôn An Lộc 37- Thôn Phú Thuận (trước là Tân Hội) 38- Thôn Vĩnh Hòa 39- Thôn Tân Phương 40- Thôn Gia Khánh 41- Thôn Nguyên Khánh 42- Thôn Đông Thành 43- Thôn Phúc Hạnh 44- Thôn Phú Mỹ 45- Thôn Mỹ Thịnh (mới đặt) 46- Thôn Gia Thịnh (mới đặt, trước là Tân Thịnh) 47- Thôn Tân Thiện 48- Thôn Tham Xuân 49- Thôn Tân Viên 50- Thôn Hội An 51- Thôn Tân Điền 52- Thôn Phú Thạch (trước là Thái Thịnh) 53- Thôn Thái Hòa (mới đặt)

54- Thôn Tân Thanh Tây 55- Thôn Long Thịnh (trước là Long Hóa) 56- Thôn Định Phúc 57- Thôn Phúc Khánh 58- Thôn Tân Trung 59- Thôn Mỹ Điền 60- Thôn An Quy 61- Thôn Giao Thịnh (mới đặt) 62- Thôn Tân Lập Trung 63- Thôn An Vinh (mới đặt) 64- Thôn Vĩnh Thành 65- Thôn Tân Khánh 66- Thôn Phú An Định 67- Thôn Tân Hương 68- Thôn Phú Khánh (trước là Tân Hóa) 69- Thôn Long Điền (mới đặt) 70- Thôn Toàn Phú Đông 71- Thôn Giao Long 72- Thôn An Thịnh 73- Thôn Hòa Thịnh (mới đặt)

* Dư 1 thôn, có lẽ thôn mới đặt

b- Tổng An Bảo (mới đặt) thuộc cù lao Bảo có 63 thôn 1 trại:



1- Thôn Hàm Long 2- Thôn Phụ Long 3- Thôn Tiên Thủy 4- Thôn Sơn An 5- Thôn Sơn Thuận 6- Thôn Phú Lợi 7- Thôn Phú Khương 8- Thôn Phú Tự 9- Thôn Tân Sơn 10- Thôn Mỹ An 11- Thôn Long Hưng 12- Thôn Hưng Thịnh 13- Thôn Tân Hào Đông 14- Thôn Tân Thanh Đông 15- Thôn Cựu Tân Hưng (mới đặt) 16- Thôn An Ngãi Tây 17- Thôn An Hòa Đông 18- Thôn Vĩnh Đức Đông 19- Thôn An Bình Đông 20- Thôn Hòa Thủy 21- Thôn Mỹ Phú (mới đặt) 22- Thôn Tiên Thủy Tây 23- Thôn Sơn Hòa 24- Thôn Mỹ Thành 25- Thôn Phú Yên Nhuận Đức 26- Thôn Tân Thành Đông 27- Thôn Phú Hưng

28- Thôn Tân Điền 29- Thông Long Thịnh 30- Thôn Tân Hào 31- Thôn Tân Định 32- Thôn Tân Thanh Trung 33- Thôn An Toàn (trước là An Lý) 34- Thôn An Ngãi Trung 35- Thôn Vĩnh Đức Tây 36- Thôn Vĩnh Đức Trung 37- Thôn An Bình Tây 38- Thôn Phú Long Tây 39- Thôn An Thủy (mới đặt) 40- Thôn Tân Thủy 41- Thôn Phú Quý 42- Thôn Phú Lộc 43- Hai thôn Phúc An Trung 44- Thôn An Chính 45- Thôn Phú An Thuận 46- Thôn Chu Thái47- Hai thôn Phúc Thịnh 48- Thôn Long Thịnh 49- Thôn Mỹ Nhân 50- Thôn Bình Định (mới đặt, trước là Tân Long) 51- Thôn Phúc Long 52- Thôn Tân Thịnh (mới dặt) 53- Thôn Tân Xuân 54- Thôn Tân Hòa 55- Thôn Tân Thuận (mới đặt)

56- Hai thôn Bình Thủy Đông, Bình Thủy Tây 57- Thôn Phú Đức 58- Thôn Phúc Tường 59- Thôn Phúc An Thinh 60- Thôn Định Hòa (mới đặt) 61- Thôn Bình Hòa 62- Thôn Chu Bình 63- Thôn Tân Trang 64- Thôn Phú Long Đông ... Trại Giồng Dừa (4)

* Dư 1 thôn, có lẽ thêm thôn mới đặt

Năm Quí Mùi 1823, vua Minh Mạng Nguyễn Phước Đảm (1791 - 1841) thăng và đổi tên huyện Tân An (cù lao Minh, cù lao Bảo) thành phủ Hoằng An thuộc trấn Vĩnh Thanh . Thăng tổng Tân Minh thành huyện Tân Minh và tổng An Bảo làm huyện Bảo An .

Năm Tân Mão 1831, Minh Mạng thứ 12 bãi bỏ Bắc Thành .

Năm Nhâm Thìn 1832, vua bãi bỏ Gia Định thành và chia ra 6 tỉnh: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Long (tên cũ Vĩnh Thanh vì kỵ húy tên Hiếu Minh hoàng hậu Vĩnh Thanh), Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Phủ Hoằng An (cù lao Minh, cù lao Bảo) thuộc tỉnh Vĩnh Long .

Năm Giáp Ngọ 1834, Minh Mạng thứ 15 định các khu vực gọi chung Lục tỉnh là Nam Kỳ . Nam Kỳ Lục Tỉnh có tên từ năm này .


Bản Đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh


Năm Bính Thân 1836, Minh Mạng thứ 17 cải đắp thành hiện kim tỉnh Phiên An đổi danh là tỉnh Gia Định (5)

Năm Đinh Dậu 1837, Minh Mạng thứ 18 chia phủ Hoằng An làm 2 phủ: Hoằng An và Hoằng Đạo .

- Phủ Hoằng An (Cù lao Minh)có huyện Tân Minh và huyện Duy Minh . Gồm 11 tổng khởi đầu bằng chữ MINH và 62 thôn:

1- Tổng Minh Chánh (7 thôn) 2- Tổng Minh Đạo (5 thôn) 3- Tổng Minh Đạt (5 thôn) 4- Tổng Minh Đức (6 thôn) 5- Tổng Minh Hóa (8 thôn) 6- Tổng Minh Huệ (5 thôn) 7- Tổng Minh Lý (6 thôn) 8- Tổng Minh Ngãi (8 thôn) 9- Tổng Minh Quý (8 thôn) 10- Tổng Minh Thuận (6 thôn) 11 Tổng Minh Trị (5 thôn)

- Phủ Hoằng Đạo (cù lao Bảo) có huyện Bảo Hựu và huyện Bảo An . Gồm 11 tổng khởi đầu bằng chữ BẢO có 64 thôn và 1 trại:

1- Tổng Bảo An (9 thôn) 2- Tổng Bảo Định (5 thôn) 3- Tổng Bảo Hòa (5 thôn) 4- Tổng Bảo Khánh (5 thôn) 5- Tổng Bảo Hựu (5 thôn và 1 trại) 6- Tổng Bảo Lộc (10 thôn)

7- Tổng Bảo Ngãi (5 thôn) 8- Tổng Bảo Phước (5 thôn) 9- Tổng Bảo Thạnh (8 thôn) 10- Tổng Bảo Thuận (2 thôn) 11- Tổng Bảo Trị (5 thôn)


Năm Mậu Tuất 1838 ngày 3 tháng 2 âm lịch vua đổi tên nước là Đại Nam

Năm Giáp Thìn 1844 Thiệu Trị thứ 4, vua Thiệu Trị Nguyễn Phước Miên Tông (1807 - 1847) lại đổi tên:

- Phủ Hoằng Đạo (cù lao Bảo) đổi thành phủ Hoằng Trị có 2 huyện Bảo An và huyện Bảo Hựu
- Phủ Hoằng An (cù lao Minh) không thay đổi với 2 huyện Tân Minh và huyện Duy Minh .

Năm Tân Hợi 1851, vua Tự Đức Nguyễn Phước Hồng Nhậm (1824 - 1883) 2 phủ Hoằng Trị và Hoằng An nhập thành một phủ Hoằng Trị có 4 huyện:

1- Huyện Bảo Hựu (cù lao Bảo) gồm 6 tổng và 42 xã thôn
2- Huyện Bảo An (cù lao Bảo) gồm 5 tổng và 27 xã thôn
3- Huyện Tân Minh (cù lao Minh) gồm 11 tổng và 75 xã thôn
4- Huyện Duy Minh (cù lao Minh) gồm 5 tổng và 34 xã thôn

Lỵ sở phủ Hoằng Trị đặt tại xã An Đức, huyện Bảo Hựu (xã An Đức nay là Mỹ Lồng, quận Giồng Trôm chứ không phải xã An Đức quận Ba Tri)

VĨNH LONG TOÀN ĐỒ


 

Về BTH-LƯỢC SỬ TỈNH BẾN TRE 05

 


*** - Chiến tranh giữa Pháp, Tây Ban Nha và nước Đại Nam



Năm Tự Đức thứ 11 có 14 chiếc thuyền và 300 liên quân Pháp cùng Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của Trung Tướng Hải Quân Charles Rigaul De Genouilly (1807 - 1073) và Đại Tá Lục Quân Tây Ban Nha Balanca Y Guttiierez (1819 - 1876) ra lịnh cho đoàn tàu chiến tiến vào cửa Đà Nẵng . Ngày 1-9-1858 tiếng súng gây hấn đã bắn vào thành An Hải và thành Tôn Hải sau đó thuộc tỉnh Quảng Nam .

Ngày 9-2-1859 Thủy quân Pháp vào cửa Cần Giờ (Nam Kỳ) bắn phá các đồn .

Ngày 18-2-1859 Pháp tấn công thành Gia Định

Ngày 14-4-1861 Pháp chiếm xong Định Tường

Ngày 7-1-1862 nước Đại Nam mất 3 tỉnh Miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) và đảo Côn Lôn .

Ngày 21 và 22-2-1862 Pháp khởi sự đánh Vĩnh Long .

Ngày 5-6-1862 Hòa ước Nhâm Tuất do Phan Thanh Giản (1796 - 1867) và Lâm Duy Hiệp (1806 - 1863) đại diện triều đình Huế ký với Đô Đốc Louis Adolphe Bonard (1805 - 1867) và Palanca Y Guttierẹz

Có 12 khoản nhưng 2 khoản rất quan trọng cho triều đình Huế:

- Khoản thứ 3: "Ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (Mỹ Tho) và đảo Côn Lôn sẽ nhượng cho Pháp"

- Khoản thứ 8: "Nước Đại Nam phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha một số tiền bồi thường 4 triệu nguyên bạc trong thời hạn 10 năm, mỗi năm 400 000 đồng, giao tận tay người đại diện Pháp ở Gia Định" (6)

Vua Tự Đức muốn chuộc lại 3 tỉnh miền Đông nên cử Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, Phạm Phú Thứ (1821 - 1882), Ngụy Khắc Đản (1817 - 1873) làm Bồi sứ với đoàn tùy tùng cộng cả thảy 62 người . Ngày 4 -7 - 1863, Sứ bộ đáp tàu Européen từ Sài Gòn sang Pháp . Cuộc điều đình chuộc lại 3 tỉnh miền Đông, được kết thúc vào xế trưa ngày 10 tháng 11. Cuối năm 1863, sứ bộ Đại Nam về đến nước nhà .

Về sau hiệp ước nầy không có kết quả vì Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat (1805 - 1873) Tổng Trưởng Bộ Hải Quân kiêm Thuộc Địa cực lực phản đối . Ông nêu lý do những người cộng tác với Pháp đều muốn Pháp ở lại để bảo vệ gia đình, sinh mạng và tài sản của họ. Nếu Pháp không bênh vực cho họ, sau nầy lấy ai cộng tác với Pháp.

Ngày 20-6-1867,Tự Đức thứ 20, Phan Thanh Giản cùng Án Sát Vĩnh Long là Võ Doãn Thanh đến đàm phán với Pierre Paul Marie De LaGrandìère (1807 - 1876). Ông Phan Thanh Giản yêu cầu chờ xin lệnh triều đình Huế vì những yêu sách quá đáng của Pháp .
Khi trở lại thành Vĩnh Long thì quân Pháp đã bao vây và chiếm mất rồi . Sau khi giao thành cho Pháp, ông tuyệt thực suốt 17 ngày không chết, rồi uống thuốc độc tự tử ngày :4-8-1867.

Ngày 21-6-1867 Pháp chiếm Châu Đốc vào buổi chiều

Ngày 24-6-1867 Pháp chiếm Hà Tiên

Về BTH-LƯỢC SỬ TỈNH BẾN TRE 04

 **** Các cơ chế hành chánh Pháp đặt tại Nam Kỳ



Tháng 6- 1867 mặc dù triều đình Huế chưa chịu nhượng 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ cho Pháp, nhưng họ gấp rút đặt nền hành chánh 6 tỉnh Nam Kỳ để dễ cai trị

Tháng 6-1867, Pháp đặt 25 Sở tham biện (Inpection) cho Lục Tỉnh . Sở tham biện Bến Tre đặt tại tả ngạn rạch Bến Tre (cù lao Bảo), địa danh Bến Tre đầu tiên được ghi tên vào các sổ bộ hành chánh của Pháp . Sau đó ít lâu dời Sở tham biện Bến Tre qua hữu ngạn . Viên tham biện Pháp đầu tiên Bến Tre (cù lao Bảo) là Hải quân Trung úy Palasme De Champeaux .

Theo quyết định ngày 4-12-1867 do Thống Đốc Nam Kỳ Pierre Paul Marie De La Grandìere chia Bến Tre làm 2 Sở tham biện . Một Sở tham biện cù lao Bảo và một Sở tham biện Mỏ Cày thuộc cù lao Minh . Viên Tham biện đầu tiên Mỏ Cày là Trung Úy Hải quân Sylvestre .
Quyết định nầy được thi hành ngày 1-1-1868.

Ngày 5-6-1871, Thống Đốc Nam Kỳ Marie Jules Dupré (1813 - 1881) ký nghị định giảm 25 Sở tham biện xuống còn 18. Riêng Bến Tre bớt một Sở tham biện cù lao Bảo .

Ngày 2-9-1871 Sở tham biện Mỏ Cày dời qua cù lao Bảo bên hữu ngạn rạch Bến Tre . Sở tham biện Mỏ Cày nhập vào Sở tham biện Bến Tre lấy tên chung là Sở tham biện Bến Tre . Lỵ sở đặt tại làng An Hội và sau nầy trở thành tỉnh lỵ Bến Tre, Kiến Hòa cho đến ngày 30-4-1975.

( Bến Tre Trong Lịch Sử Việt Nam tác giả Nguyễn Duy Oanh viểt: "Ngày 13-12-1872, sở bưu điện Bến Tre được mở cửa").

[Theo tự vị Tiêńg Việt Miền Nam tác giả Vương Hồng Sển: Nhờ câu: "Nhà dây thép đặt năm 1897 tại Cái Mơng ̣( Tỉnh thành )". Ta được biết năm đó Tây đặt tòa bố tỉnh lỵ Cái Mơng, sau mới dời về Bến Tre , vì khi có an ninh trong tỉnh thì vị trí Bến Tre thuận lợi hơn] .

Ngày 15-3-1874,Tự Đức thứ 27, Hòa Ước Giáp Tuất được đại diện triều đình Huế ký bởi ông Lê Tuấn (1818 - 1874), Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) và Thống Đốc Nam Kỳ Marie Jules Dupré . Hòa Ước có 22 khoản, đại lược khoản V là quan trọng hơn cả.

Khoản V: "Vua nước Nam phải thuận nhường đứt đất 6 tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp" (7)

Để đổi lại Pháp hứa không đụng chạm 3 ngôi mộ họ Hồ (Hồ Thị Hoa mẹ vua Thiệu Trị) ở Biên Hòa, 11 ngôi mộ họ Phạm (Phạm Thị Hằng mẹ vua Tự Đức) ở Gò Công .

Ngày 5-1-1876, Thống Đốc Nam Kỳ ký nghị định tăng thêm một Sở tham biện Trà Ôn thành 19 và chia Nam Kỳ thành 4 khu vực (Circoncription). Sở tham biện Bến Tre (Inpection Bentre) nằm trong khu vực III thuộc khu vực Vĩnh Long .


19 Sở tham biện Nam Kỳ gồm có:

1- Bà Rịa 2- Biên Hòa 3- Thủ Dầu Một 4- Sài Gòn 5- Chợ Lớn 6-Tân An 7- Tây Ninh 8- Gò Công 9- Mỹ Tho 10- Bến Tre (Mỏ Cày) 11- Vĩnh Long 12- Sa Đéc 13- Trà Vinh 14- Châu Đốc 15- Hà Tiên 16- Long Xuyên 17- Rạch Giá 18-Sóc Trăng 19- Trà Ôn


Bốn Khu vực Nam Kỳ gồm có:

- Khu vực Sài Gòn có 5 tiểu khu: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa và Sài Gòn

- Khu vực Mỹ Tho có 4 tiểu khu: Mỹ Tho, Gò Công, Tân An và Chợ Lớn.

- Khu vực Vĩnh Long có 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc

- Khu vực Bassac có 6 tiểu khu: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Trà Ôn và Sóc Trặng

Năm 1882 Thống đốc Nam Kỳ lập thêm 1 hạt Bạc Liêu thuộc khu vực Bassac . Nam Kỳ có 20 hạt. Sở tham biện Bến Tre được nâng thành hạt Bến Tre (Arrondissement) . Đứng đầu arrondissement là Administrateur tiếng Việt gọi là Chánh Tham Biện . Dinh hành chánh gọi là Tòa tham biện dân quen gọi là Tòa Bố . Các Hạt trực thuộc dưới quyền của Thống đốc Nam Kỳ ở Sài Gòn .

Từ năm 1891 đến 1926 Bến Tre có 21 tổng và số làng giảm bớt từ 182 xuống 144 .


Năm 1895 lập thêm thành phố tự trị Cap Saint Jacque tách từ hạt Bà Rịa, rồi lại nhập vào Bà Rịa năm 1898 và năm sau lại tách ra .

20-12-1899 Toàn Quyền Paul Doumer (1857 - 1932) ký nghị định đổi tên Hạt (Arrondissement) thành Tỉnh (Province) sẽ được thi hành ngày 1-1-1900 . Từ đây tỉnh Bến Tre (cù lao Minh, cù lao Bảo) hoàn toàn độc lập không còn thuộc vào khu vực Vĩnh Long .




Nam Kỳ chính thức có 21 tỉnh và thành phố đúng là 1 sự ngẫu nhiên trước năm 1945 lúc chia 21 tỉnh, bắt số để gọi theo thứ tự như sau:

(Để cho dễ nhớ dân Nam Kỳ có câu "thiệu" đọc tên 21 tỉnh: Gia - Châu - Hà - Rạch - Trà- Sa - Bến ---- Long- Tân - Sóc - Thủ - Tây - Biên - Mỹ --- - Bà - Chợ - Vĩnh - Gò - Cần - Bạc - Cắp)

1- Gia Định 2- Châu Đốc 3-  Tiên 4- Rạch Giá 5- Trà Vinh 6- Sa Đéc 7- Bến Tre

8- Long Xuyên 9- Tân An 10-Sóc Trăng 11- Thủ Dầu Một 12- Tây Ninh 13- Biên Hòa 14- Mỹ Tho

15-  Rịa 16- Chợ Lớn 17- Vĩnh Long 18-  Công 19- Cần Thơ 20- Bạc Liêu 21- Cắp

(Ô Cắp) (Cap Saint Jacques) (CẮP viết theo Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam của Vương Hồng Sển, ông viết Ô Cắp phiên âm từ Au Cap tiếng Pháp)





(Thành phố Sài Gòn cấp 1, Chợ Lớn cấp 2, thành phố tự trị Cap Saint Jacques và Côn Đảo không thuộc vào tỉnh nào . Năm 1905 xóa bỏ thành phố Cap Saint Jacques chuyển thành địa lý hành chánh thuộc tỉnh Bà Rịa)


Năm 1903 tỉnh Bến Tre có 21 tổng và 178 làng . Cù lao Bảo có 11 tổng khởi đầu bằng chữ BẢO và 99 làng . Cù lao Minh có 10 tổng khởi đầu bằng chữ MINH có 79 làng






Đầu năm 1945, tỉnh Bến Tre có 4 quận, 18 tổng và 92 làng: Cù lao Bảo có 9 tổng, cù lao Minh có 9 tổng


- Cù lao Bảo


A- Quận SÓC SÃI: 4 tổng 27 làng và 13 chợ:

1- Tổng Bảo Đức 5 làng 1 chợ

2- Tổng Bảo Hựu 6 làng 3chợ

3- Tổng Bảo Ngãi 6 làng3 chợ

4- Tổng Bảo Thành 10 làng 6 chợ


B- Quận BA TRI: 5 tổng 26 làng 19 chợ

1- Tổng Bảo An 4 làng 5 chợ

2- Tổng Bảo Lộc 6 làng 5 chợ

3- Tổng Bảo Phước 5 làng 3 chợ

4- Tổng Bảo Thuận 6 làng 4 chợ

5- Tổng Bảo Trị 5 làng 2 chợ



- Cù Lao Minh


A- Quận MỎ CÀY:7 tổng 29 làng 14 chợ

1- Tổng Minh Đạo 3 làng 2 chợ

2- Tổng Minh Đạt 5 làng 4 chợ

3- Tổng Minh Huệ 4 làng 1 chợ

4- Tổng Minh Lý 4 làng 1 chợ

5- Tổng Minh Quới 5 làng 4 chợ

6- Tổng Minh Thiện 4 làng 1 chợ

7- Tổng Minh Thuận 4 làng 1 chợ


B- Quận THẠNH PHÚ: 2 tổng 10 làng4 chợ

1- Tổng Minh Phú 4 làng 1 chợ

2- Tổng Minh Trị 6 làng 3 chợ

Visitor Map

web stats
Bản Đồ Hành Chánh Ba Tri
Photobucket Photobucket
Không Ảnh Thị Trấn Ba Tri
Photobucket
Photobucket