Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2020

Về BTH- DANH NHÂN001- PHAN THANH GIẢN

 THÂN THẾ & SỰ NGHIỆP PHAN THANH GIẢN


Nguyễn Thanh Liêm, Ph D.

(Cựu Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa)





Phan Thanh Giản tên chữ là Tinh Bá, và Đạm Như, hiệu Lương Khê, biệt hiệu Mai Xuyên, sinh ngày 12 tháng 10, năm Bính Thìn, tức Tây Lịch 1796. Tổ tiên là người Trung Hoa, đến cuối đời Minh mới sang Việt Nam, trước ở làng Hội Trung, huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định, đến đời thân sinh cụ gia đình mới thiên cư vào Nam ở làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh về sau đổi ra làng Bảo Thạnh, tổng Bảo Trị, huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, tỉnh Vĩnh Long, và sau này làng Bảo Thạnh lại thuộc quận Ba Tri, tỉnh Kiến Hoà.
Thân sinh của cụ Phan là Phan Thanh Ngạn, hiệu Mai Dã, tục gọi là Xán, cất nhà ở gảnh Mù U, bãi Ngao, tức Ngao Châu, cưới vợ là bà Lâm Thị Búp, người làng Phú Ngãi, tổng Bảo Thuận. Phan Thanh Ngạn để vợ con ở gảnh Mù U, lên Vĩnh Long làm chức thơ lại cho triều Nguyễn. Năm 1798 ông lãnh vận lương cấp cho quan quân đánh với Tây Sơn ở Bình Định. Bà Lâm Thị Búp mất năm 1802, thọ 27 tuổi. Lúc này Phan Thanh Giản chỉ mới 7 tuổi. Cha có vợ khác là người Long Hồ. Nhưng mẹ ghẻ là người hiền đức, hết lòng lo lắng cho con chồng. Bà cho Phan Thanh Giản theo học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa Phú Ngãi. Mỗi tháng bà phát cho Phan Thanh Giản 30 tô gạo và 30 con mấm.

Năm 1815 Phan Thanh Ngạn bị vu cáo, bị cách chức, và bị phạt tù một năm ở Vĩnh Long. Phan Thanh Giản thân hành lên tỉnh xin ở tù thế cho cha trước quan Hiệp Trấn Vĩnh Long nhưng không được. Thấy Phan Thanh Giản hiếu hạnh, lại thông minh dĩnh ngộ, quan Hiệp Trấn an ủi ông, khuyên ông cố gắng học hành và hết lòng giúp đở ông về tài chánh. Hằng ngày ông vào khám thăm cha, làm những việc cực nhọc của cha phải làm, và hết sức chuyên cần học tập. Sau khi cha mãn tù, nhờ sự khuyến khích giúp đở của quan Hiệp Trấn, Phan Thanh Giản tiếp tục ở lại Vĩnh Long, học với một đốc học họ Võ. Ông cũng được bà quả phụ Nguyễn Thị Ân, cám thương tình cảnh thiếu thốn của ông, giúp đở ông tiến bạc, quần áo.

Năm 1825 Phan Thanh Giản đậu Cử Nhân kỳ thi Hương tại Gia Định. Cũng trong năm này ông cưới bà Lê người Long Hồ làm vợ vì bà vợ trước đã mất. Năm 1826 ông ra Huế dự thi. Trước khi ra đi ông có bài thơ “Ký Nội” nhắn gởi bà vợ ở nhà lo cho cha đang già yếu bệnh hoạn. Bài thơ này được nhiều cho là một kiệt tác của ông.

Từ thuở vương mang mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông.
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước nợ trai đành nỗi bận,
Cha già nhà khó cậy ai cùng.
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt,
Rằng nhớ rằng quên lòng hởi lòng.

Trong khoa thi này (Bính Tuất, 1826) có 200 sĩ tử, trong số này có 10 người đỗ Tiến Sĩ. Phan Thanh Giản đứng thứ ba trong 10 ông tiến sĩ khoa này. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Miền Nam có một vị tiến sĩ thời Nho học. Đậu xong, ông về quê lạy tạ ơn Hiếp Trấn Vĩnh Long, ông thầy họ Võ, bà Nguyễn Thị Ân, nhà sư nguyễn Văn Noa cùng thân bằng quyến thuộc, nhưng tuyệt nhiên không c ó cảnh vinh quy bái tổ, võng chàng đi trước, võng nàng theo sau.

Năm 1827 ông bắt đầu cuộc đời làm quan với chức Lang Trung bộ hình tại kinh đô Huế. Năm sau ông lãnh chức Tham hiệp tỉnh Quảng Bình. Năm này nhờ người mai mối, ông cưới bàTrần Thị Hoạch, một hiền phụ ở Quảng Trị. Cụ Phan đưa vợ về Kiến Hoà để lo phụng dưỡng cho thân phụ đã già yếụ. Bà Trần Thị Hoạch làm tròn câu “xuất giá tùng phu”, một mình về Kiến Hoà báo hiếu cho chồng. Bà cưới người hầu thiếp, tên Thịnh ở làng Bảo Thạnh, cho cụ Phan để có người hầu hạ cụ nhưng cụ nhất định từ chối.

Từ Quảng Bình ôngï được thuyên chuyển về Quảng Nam để dẹp loạn Cao Gồng ở Chiên Đàn. Thất trận ông bị giáng chức làm Tiền Quân hiệu lực, mỗi khi đáng giặc ông vác giáo đi trước. Khi yên giặc ôngï được gọi về Kinh phục chức Hàn Lâm kiểm thảo, sung nội các hành tẩu rồi làm phó sứ sang Trung Hoa. Được khen thưởng và được cắt cử làm Kinh Lược sứ ở Trấn Tây (Cao Miên), rồi trỡ về sung chức Bố Chánh Quảng Nam.

Năm 1836, Minh Mạng muốn ngự giá núi Ngũ Hành. Ông dâng sớ cản ngăn. Minh Mạng không nghe lời can. Khi Minh Mạng đến Quảng Nam, Phan Thanh Giản quì trước ngự giá cản vua. Minh Mạng đình chỉ việc tuần thú, nhưng sai người đến Quảng Nam xem xét tình hình. Bị nịnh thần gièm siểm, cụ bị giáng chức, làm người quét dọn bàn ghế tại tỉnh đường tỉnh Quảng Nam. Nhưng ít lâu sau, được vua hiểu rõ tình cảnh và lòng dạ, nên được tin dùng trỡ lại, và được bổ Đô Sát viện Ngự Sử, sung Cơ Mật Viện đại thần.

Năm Thiệu Trị nguyên niên, 1841, ông được thăng Tham Tri bộ hình, sung Cơ Mật Viện đại thần. Năm này ông được cử làm Chánh Chủ Khảo trường thi Hà Nội. Năm 1842 Thiệu Trị tuần du ra Bắc. Quân lính và hầu cận gần 17,500 người, chi phí lên đến 100 vạn quan. Hành cung xây 44 nơi. Năm 1847, ông được Thiệu Trị khen và thăng Hình Bộ Thượng Thơ sung Cơ Mật Viện đại thần. Thiệu Trị thăng hà năm này và Tự Đức lên thay. Ông được đổi qua Lại Bộ Thượng Thơ. Năm 1851, vua sai Nguyễn Tri Phương làm Kinh Lược chánh sứ, Phan Thanh Giản làm phó sứ vào Nam lập đồn điền, khai phá rừng bụi, lập làng ấp, đấp đồng luỷ ngăn ngừa giặc Miên. Mùa xuân 1852 trời có nhiều điều lạ. Vua lo sợ, xuống lời dụ hỏi các quan để vua thẩm xét và làm theo. Phan Thanh Giản và Nguyễn Tri Phương có sớ điều trần gồm 8 điểm trình lên vua. Tự Đức thưởng cho Phan Thanh Giản tấm kim khánh có khắc 4 chữ “Liêm, Bình, Cần, Cán”.

Năm 1859, Pháp chiếm Gia Định và sau đó, năm 1961, chiếm 3 tỉnh Miền Đông, và lâm le tấn công sang Vĩnh Long. Triều đình sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Nam thương thuyết để cứu vãn tình thế. Việt Nam đang ở vào thế yếu nên cuộc thương thuyết chỉ đưa đến việc ký kết hiệp ước ngày 5/6/1862 cắt 3 tỉnh Miền Đông giao cho Pháp để giảng hoà. Vua Tự Đức và các triều thần không hài lòng nên lại cử phái bộ sang Pháp chuộc lại các tỉnh bị mất. Phan Thanh Giản được giao trách nhiệm Chánh Sứ, với Phó Sứ Phạm Phú Thứ và Bồi Sứ Nguỵ Khắc Đản. Phái đoàn gồm 53 người trong đó có Petrus Truong Vĩnh Ký làm thông dịch viên, từ Đà Nẵng xuống tàu “Echo”hồi cuối tháng 6. Ngày 4/7 phái đoàn đáp tàu “Européen” đến Alexandrie đổi qua tàu “Labrador” sang Pháp. Sau hai tháng 7 ngày lênh đênh trên mặt bể, phái đoàn đến Pháp. Ngày 10/9/1863 sứ bộ lên Marseille, được hải quân Pháp ở đây chào mừng bằng 17 phát đại bác. Các thuyền ở tại bến đều kéo cờ Việt Nam bên cạnh cờ Pháp theo đúng nghi thức. Phái bộ nghỉ tạm một đêm ở Marseille và hôm sau, 11/9, lên Paris triều yết Pháp hoàng Nã Phá Luân đệ Tam. Nhưng lúc này Pháp hoàng đang nghỉ mát, sứ thần phải chờ hơn một tháng mới được yết kiến. Phan Thanh Giản đệ trình văn thơ xin chuộc ba tỉnh Miền Đông của vua Tự Đức. Pháp hoàng trả lời phái đoàn là sẽ trả lời triều đình Huế sau khi có cuộc đình nghị ở Pháp. Mấy hôm sau Phan Thanh Giản cùng phái đoàn đi sang Y pha Nho, và đến cuối năm thì lên tàu “Japon” trỡ về Việt Nam. Cuộc thương thuyết không đi đến đâu cả vì chưa có hồi đáp của Pháp hoàng. Ngày 24/3/1864 sứ bộ về tới Sài Gòn sau một chuyến công du không kết quả. Phía Pháp lúc này cũng đang có khó khăn, Pháp hoàng còn rất phân vân mới sai trung tá Aubaret sang điều đình với triều đình Huế. Cuộc điều đình chưa xong thì Chasseloup Laubat , bộ trưởng Hải Quân Pháp, tâu lên Pháp hoàng không cho Việt Nam chuộc ba tỉnh Miền Đông, và buộc phải thi hành hoà ước Nhâm Tuất (1862). Năm 1865 việc cai trị ở 3 tỉnh Miền Đông khá ổn định, De la Grandière bắt đầu dòm ngó các tỉnh Miền Tây. Triều đình Huế đã thấy được ý đồ của Suý Phủ Sài Gòn nên năm 1866 lại sai Phan Thanh Giản vào làm kinh lược sứ để tìm cách chống giữ.

Trong nhiệm vụ mới, hết sức nặng nề, cụ Phan cố gắng tìm cơ hội giải hoà, tiết kiệm xương máu của dân chúng. Biết không đương đầu nỗi với súng ống tối tân của Pháp cụ Phan không còn cách nào để bảo vệ phần còn lại của Nam Kỳ hơn là yêu cầu đàm phán. Nhưng thực dân Pháp đã thấy rõ thế yếu của Việt Nam. Ngày 17/6/1867 Pháp đem đại quân trên tàu chiến đến trước thành Vĩnh Long đưa tối hậu thơ cho cụ Phan yêu cầu đàm phán ngay trên tàu của họ. Trong cuộc hội đàm họ đưa ra điều kiện buộc Việt Nam đầu hàng. Cụ Phan từ khước, xin đình lại để hỏi ý kiến triều đình. Nhưng ngay khi cuộc đàm phán chưa kết thúc thì quân Pháp đã đổ bộ kéo binh vào thành. Vĩnh Long thất thủ, và tiếp theo đóø An Giang và Hà Tiên cũng lần lượt rơi vào tay Pháp.
Thấy mình không làm tròn bổn phận giử thành, cụ Phan đã tự xử lấy mình. Cụ vào trong một chòi tranh bắt đầu tuyệt thực. Cụ xếp tất cả áo mão, trào phục, sắc phong, kèm theo tờ sớ tạ tội với triều đình. Sau 17 ngày tuyệt thực, cụ vẫn không chết. Lúc nữa đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm Đinh Mão (1867), cụ uống á phiện với giấm thanh kết liễu đời mình. Lúc này cụ được 71 tuổi.

Linh cửu cụ được đem về làng Bảo Thạnh, huyện Kiến Hoà, mai táng. Các quan Nam và Pháp tời thăm ai cũng đều ngậm ngùi thương tiếc. Cụ Nguyễn Đình Chiểu có bài thơ khóc cụ Phan:

Non nước tan tành hệ bởi đâu
Dàu dàu mây trắng cõi Ngao Châu.
Ba triều công cán vài hàng sớ
Sáu tỉnh cang thường một gánh thâu
Trạm Bắc ngày chiều tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.
Minh sanh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ đây mặc gió thu

Cùng lúc này triều đình chẳng những không đoái tưởng đến một công thần hết sức trung thành, hết lòng vì dân vì nước, không một lời chia buồn cùng gia quyến, còn có sắc bãi chức cụ để làm gương, cho đục tên cụ trong bia tiến sĩ ngoài Huế.

Thấy mình đã không tròn trách nhiệm đối với triều đình trong việc bảo toàn lãnh thổ, cụ chỉ muốn người đời sau biết đến cụ như một người dân thường không có học vị, quan chức, công nghiệp gì cả, vì thế cụ đã có di chúc cho con cháu chỉ ghi trên mộ bia một câu tầm thường như sau:

“NAM KỲ HẢI NHAI LÃO THƠ SANH
PHAN CÔNG CHI MỘ”

Đối với triều đình Huề và một số người (Không dùng từ này) chật hẹp, cụ Phan không có một sự nghiệp gì đáng kể. Tuy nhiên đối với người dân Miền Nam cũng như đối với những người trí thức nhân bản, khai phóng thì sự nghiệp của cụ Phan hết sức lớn lao, không những về văn chương mà cả về chính trị. Về văn chương, Phan Thanh Giản là một nhà thơ, một nhà văn, một học giả uyên bác, để lại nhiều tác phẩm giá trị. Toàn thể tác phẩm của cụ được ghi lại trong bộ sách “Lương Khê thi văn thảo” do chính cụ cùng các con sưu tầm, biên tập và khắc in. Bộ sách gồm hai phần: Phần Một là phần Thi Thảo gồm 18 quyển với gần 500 bài thơ Đường luật, ngũ ngôn, tư,ø vịnh, và Phần Hai là phần Văn Thảo gồm biểu, sớ, ký, sự, thuyết, luy, thư, luận, biện. . . tất cả 39 bài trong 3 quyển. Ngoài ra còn có Phần Phụ gồm Thi Thảo Bổ Di với 20 bài vịnh, và Văn Thảo Bổ Di với 4 bài. Về chính trị, nếu lấy chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” làm triết lý căn bản, thì sự nghiệp của cụ Phan phải được đánh giá thật cao. Năm 1828, nhân có bão lụt ở Huế, cụ đã dâng sớ tâu xin “Thánh Thượng tự sửa mình làm điều nhân đức và giảm số cung nữ phi tần. . . như thế . . . bách tính sẽ được sung sướng.” Với tính cương trực, và với lòng thương dân cao độ, cụ đã nhiều lần can gián vua bớt những xa xí, phí tổn, bớt gánh nặng trút lên đầu dân nghèo. Có lần bị giáng chức, bị quở phạt, cụ cũng không nhụt chí. Trong một tờ sớ dâng vua Minh Mạng, cụ viết “Vua ngự htì ngàn xe, muôn ngựa, quan quân hầu hạ, nhứt thiết vì tiêu dùng của vua. Những việc sửa đắp đường sá, dọn dẹp cung điện, sáp củi đốt cho quan quân, cắt cỏ lót cho ngựa, voi, tất nhiên phải bắt dân phu với lính, như thế dân phải bỏ việc tư, lo việc công. Hạ thần là kẻ giữ đất chăn dân, đội đức vua, không làm được cho dân hạnh phúc thật là có tội”.

Trước sức mạnh của văn minh Tây phương, biết mình không cách gì chống cự được, cụ chủ trương hoà hoản, học hỏi, đổi mới thay vì chống trả bằng quân sự. Chủ trương của cụ đã tiết kiệm được biết bao nhiêu xương máu, tàn phá, sụp đỗ cho người dân lành. Nếu dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, thì con đường của cụ là con đường có giá trị nhất. Điều đó cho thấy tại sao người dân Nam luôn nhớ ơn, tôn sùng cụ.



(Hình chụp tại Paris năm 1863, hiện lưu trử ở Viện Bảo Tàng Nhân Chủng Paris)



(Văn Thánh Miếu tọa lạc đường Văn Thánh Vĩnh Long)







Mộ cụ Phan Thanh Giản cho đến năm 1957


Trùng tu năm 1969


Mộ Cụ PHAN THANH GIẢN (Xã Bão Thạnh, Ba Tri, Bến Tre) hiện nay






======

Phan Thanh Giản

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phan Thanh Giản


(Hình chụp tại Paris năm 1863 nhân dịp ông dẫn đầu sứ bộ sang Pháp để xin chuộc đất)


Sinh 1796 Bến Tre
Mất 1867 Vĩnh Long

Công việc Danh sĩ, quan nhà Nguyễn

Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Thanh Giản (định hướng).
Phan Thanh Giản (chữ Hán: 潘清簡; 1796 - 1867), tự Tĩnh Bá, Đạm Như (淡如), hiệu Ước Phu, Lương Khê; là một danh sĩ, một đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Thân thế và sự nghiệp

Phan Thanh Giản xuất thân trong một gia đình nghèo khổ. Tương truyền tổ phụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu Ngẫu Cừ, sống thời nhà Minh[1]. Sau khi nhà Minh bị nhà Mãn Thanh tiêu diệt, Phan Thanh Tập di cư sang phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Việt Nam). Nơi đây ông cưới vợ tên Huỳnh Thị Học, sinh được một trai tên là Phan Thanh Ngạn tục gọi là Xán.
Năm 1771, gia đình ông Ngạn vào Nam tạm cư ở Thang Trông, thuộc tỉnh Định Tường Sau dó lại dời về Mân Thít, trấn Vĩnh Thanh (thuộc Vĩnh Long ngày nay), rồi lại dời về ở huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Cuối cùng ông Ngạn đến lập nghiệp tại thôn An Hòa, làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thạnh (nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).
Ở đây, ông cưới người vợ tên Lâm Thị Bút. Ngày 11 tháng 11 năm 1796, bà hạ sinh được một trai tên Phan Thanh Giản. Năm Phan Thanh Giản lên 7 (1802), thì mẹ qua đời, cha cưới người vợ nữa tên Trần Thị Dưỡng để có người chăm sóc con. Bà mẹ kế này rất thương yêu con chống. Đến tuổi đi học, ông theo học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi.
Năm 1815, vì sự cáo gian của kẻ có thù riêng với gia đình [2], cha Phan Thanh Giản lúc ấy đang làm Thủ hạp (một viên chức nhỏ), phải ngồi tù.
Nóng lòng vì cha bị hàm oan, ông đệ đơn lên Hiệp trấn Lương (không rõ họ) ở Vĩnh Long xin được thay cha vào tù. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo, viên quan này đã cho ông ở gần nơi cha bị giam cầm, để vừa trao giồi kinh sử, vừa có cơ hội thăm cha mỗi ngày [1]. Sau khi cha được mãn tù, nghe lời Hiệp trấn Lương, Phan Thanh Giản ở lại Vĩnh Long để tiếp tục học và chờ đợi khoa thi. Tại đây, ông gặp một người đàn bà nhân hậu tên Ân. Bà này đã giúp ông tiền và cơm, áo...để tiếp tục theo đuổi việc đèn sách.
Ra làm quan[sửa | sửa mã nguồn]


Chân dung Phan Thanh Giản

Năm 1825, ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau đó một năm, ông đậu đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), vào năm 30 tuổi. Ông là người đậu Tiến sĩ khai khoa ở Nam bộ.
Từ đấy, ông làm quan trải ba triều, là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Dưới triều Minh Mạng, ông lần lượt giữ các chức vụ: Hàn lâm viện biên tu, Lang trung bộ Hình (1827), Tham hiệp tỉnh Quảng Bình (1828), Hiệp trấn tỉnh Quảng Nam (1828), Quyền nhiếp Tham hiệp tỉnh Nghệ An (1829), Lễ bộ tả thị lang và tham gia nội các (1830), Hàn lâm viện kiểm thảo sung Nội các hành tẩu và Hộ bộ viên ngoại lang (1832), Đại lý tự khanh sung Cơ mật viện đại thần (1834), Kinh lược trấn Tây (1835), Tuần phủ Quảng Nam (1836), Thống chánh sứ và Phó sứ rồi Hộ bộ thị lang (1839). Dưới triều Minh Mạng, ông đã ba lần bị giáng chức, trong đó có lần ông phải làm "Lục phẩm thuộc viên", tức giữ việc quét dọn, sắp đặt bàn ghế ở chốn công đường (1836).
Dưới triều Thiệu Trị, ông làm Phó chủ khảo trường thi Thừa Thiên (1840), Phó đô ngự sử Đô sát viện (1847).
Dưới triều Tự Đức, ông phụ trách giảng dạy và điều khiển trường Kinh Diên, Thượng thư bộ Lại, sung Cơ mật viện đại thần (1849). Năm 1850, ông được cử vào trấn nhậm miền Tây Nam Kỳ cùng với tướng Nguyễn Tri Phương. Sau đó, được phong làm Kinh lược sứ Nam Kỳ.
Ông được vua Tự Đức giao làm Tổng tài Quốc sử quán coi việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục phụ tá có một Phó Tổng tài, 6 Toản tu góp tài liệu, viết lên, 6 Khảo hiệu xét lại và 6 Đằng tả viết chữ ngay ngắn. Sách soạn trong 3 năm 1856-1859, dâng lên Tự Đức coi lại các lần 1871, 1872, 1876, 1878 và có lời phê bên trên.

Thương nghị với người Pháp


Phan Thanh Giản

Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ và tấn công tại cửa biển Đà Nẵng rồi lần lượt đánh chiếm các tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Ông Phan Thanh Giản với vai trò là Chánh sứ và Lâm Duy Hiệp là Phó sứ được cử đi điều đình với Pháp, sau đó đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết hiệp ước hòa bình và hữu nghị Hòa ước Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn.
Hiệp ước gồm 12 khoản, theo đó, ba tỉnh Biên Hòa Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn (Côn Đảo) được nhượng cho Pháp (Khoản 3 Hiệp ước); triều đình phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha một khoản bồi thường chiến phí là 4 triệu piastre trong 10 năm, mỗi năm 400.000 đồng (quy ra bạc là 288 nghìn lạng-Khoản 8 hiệp ước); đổi lại, người Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế, nhưng kèm theo điều kiện là triều đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (Khoản 11 hiệp ước). Do hành động này mà dân gian có câu truyền "Phan Lâm mãi quốc, triều đình thí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng). Theo nhà sử học Phan Huy Lê, nguồn gốc và xuất xứ của câu này chưa được làm rõ, theo ông câu này không thấy ghi chép lại trong những tác phẩm viết về Trương Định của những tác giả đương thời, như Nguyễn Thông.


Khu mộ Phan Thanh Giản

Tuy việc thương nghị với phía Pháp, vua Tự Đức có cho ông tùy nghi tình thế mà định đoạt nhưng về việc cắt đất, nhà vua có căn dặn Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ráng sức chuộc lại ba tỉnh với giá 1.300 vạn lạng, còn nếu phía Pháp đòi cắt đất luôn thì kiên quyết không nghe, nhưng Phan Thanh Giản đã phải cắt đất lại còn bồi thường chiến phí. Do đó mà hai ông khi trở về đã bị quở trách nặng nề [3].
Việc chuộc ba tỉnh không thành, Phan Thanh Giản bị cách lưu làm Tổng đốc Vĩnh Long, nhưng rồi lại được cử làm Chánh sứ (Phó sứ là Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) sang nước Pháp để điều đình một lần nữa về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông (1863), nhưng cũng không đạt được kết quả. Năm 1865, ông được phục chức Hiệp biện đại học sĩ, Hộ bộ thượng thư, sung Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và được tha tội cách lưu.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long (vốn đã được trao trả triều đình Huế ngày 25 tháng 5 năm 1863), yêu cầu ông gửi mật thư cho thủ thành An Giang và Hà Tiên buông súng đầu hàng. Trước sức mạnh áp đảo của Pháp về mặt quân sự, biết thế không thể giữ nổi, nên để tránh đổ máu vô ích, Phan Thanh Giản đã quyết định trao thành, không kháng cự, với yêu cầu người Pháp phải bảo đảm an toàn cho dân chúng. Thế là chỉ trong 5 ngày (20-24 tháng 6 năm 1867), Pháp chiếm gọn ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Sau khi thành mất ông tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 4 tháng 8 năm 1867, hưởng thọ 72 tuổi.
Đền thờ Phan Thanh Giản hiện ở ấp Thạnh Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, Bến Tre. Và từ rất lâu, nhân dân ở vùng núi Ba Thê, thuộc huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang vẫn coi ông là một vị thần Thành Hoàng. Ngoài ra ông còn được thờ tại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long


Nhận định


Mộ Phan Thanh Giản
Phan Thanh Giản được nhiều người kính trọng vì tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm[4]. Tuy nhiên, trong cơn nước biến, thái độ ôn hòa của ông khiến không ít người đã phàn nàn. Tháng 11 năm 1868, vì làm mất Nam Kỳ, triều đình Huế đã xử ông án "trảm quyết" (nhưng vì chết nên được miễn), lột hết chức tước và cho đục bỏ tên ông ở bia tiến sĩ. Mãi đến 19 năm sau (1886) ông mới được vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm Hiệp tá đại học sĩ và cho khắc lại tên ở bia tiến sĩ.[5].
Ngược lại, cũng có nhiều trí thức đương thời đã tỏ lòng thông cảm cho ông. Như Nguyễn Thông đã từng dâng sớ lên vua Tự Đức để giải bày nỗi oan cho ông. Và nhà thơ đương thời Nguyễn Đình Chiểu cũng đã tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng ông qua bài thơ điếu:
Minh tinh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ rày mặc gió thu.
Trong bài "Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong", một lần nữa Nguyễn Đình Chiểu lại nêu cao tinh thần của Phan Thanh Giản:

Ý người đặng xem tấm bản phong trần, Phan học sĩ hết lòng cứu nước.
Hai con trai của ông, Phan Tôn (1837 - 1893), Phan Liêm (1833 - 1896), nổi lên chống Pháp tại tỉnh Vĩnh Long.
Một sĩ quan Pháp là Reunier, người đã từng tham gia chiến tranh ở Trung Quốc và Nam Kỳ, đã nhận xét về ông như sau:
Sống trong 4 tháng gần vị lão thành cao thượng ấy, chúng tôi có thể đánh giá các đức tính của ông ta...trong thời gian vượt biển này (chuyến đi sứ sang Pháp) ông không ngớt được khuyến khích bởi lòng nhiệt thành ái quốc của ông, và thúc đẩy bởi nguyện vọng thực hiện được công chuyện hữu ích cho nước nhà...[6]
Năm 1963, hành động giao nộp ba tỉnh miền Tây, được Trần Huy Liệu đem ra bàn luận, và đã kết tội ông là kẻ "bán nước" [7].
Sau 1975, nhiều đường phố ở miền Nam Việt Nam mang tên Phan Thanh Giản đã bị đổi thành tên khác[8][9].
Cho tới những ngày đầu năm 2008, Viện Sử học Việt Nam mới thống nhất kết luận rằng "Phan Thanh Giản là người nổi tiếng về đạo đức, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc; nên đề nghị tôn vinh ông, cho khôi phục, tôn tạo những di tích và những gì gắn liền với ông"; và đã được giới có thẩm quyền chấp thuận...[10]
Trong sách Đi & ghi nhớ của Sơn Nam (xuất bản năm 2008), một lần nữa, nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản lại được đề cập trong một đoạn viết như sau:
Hồi xưa, lúc còn nhỏ, tôi (lời thuật của một giáo viên lớn tuổi đi cùng với Sơn Nam) được dạy cẩn thận, khi đi ngang qua miếu Văn Thánh, học trò phải giở nón, cúi đầu để chào ông Phan. Chào ông Phan, (được xem như) là lời thề rửa hận cho ông, cho chớ không phải để bắt chước ông...Người có công nghiên cứu về Phan Thanh Giản là Lê Thọ Xuân, đăng báo Đồng Nai đâu từ năm 1931...với những chi tiết thú vị. Tuy làm quan to nhưng ông tự xem mình như người dân thường ở nông thôn, đối xử như người bình dân, không bao giờ phô trương quyền lực. Xin đề nghị: Trong chương trình Sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ lý đủ tình...Ông đã để lại cho đời sau chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, thơ mộng. [11]
Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Thanh Giản là một nhà văn lớn với nhiều tác phẩm giá trị.

Lương Khê thi thảo
Lương Khê văn thảo
Sứ Thanh thi tập
Tây phù nhật kí
Ước Phu thi tập
Tích Ung canh ca hội tập
Sứ trình thi tập
Việt sử thông giám cương mục (Chủ biên)
Minh Mạng chính yếu (Chủ biên).


Đền thờ Phan Thanh Giản tại Bảo Thạnh.


Tượng Phan Thanh Giản trong đền thờ ông ở Bảo Thạnh.


Vĩnh Long, Văn Thánh Miếu, đền thờ cụ Phan Thanh Giản


Đình Thần Phan Thanh Giản tại chân núi Ba Thê.


=======


PHAN THANH GIẢN -THÂN THẾ và SỰ NGHIỆP


Phan Thanh Giản vốn dòng dõi nho gia. Lúc còn nhỏ, ông được một nhà sư nuôi dạy. Lớn lên, cụ theo học với nhiều bậc túc nho. Vì vậy, tư duy của Phan Thanh Giản tất nhuần thấm tư tưởng của Phật Thích Ca và Khổng Tử khiến cụ trở thành một nhân vật suốt đời sống với đạo Từ Bi và với đức Nhân, Trí, Dũng của hai vị đại triết nhân này. Lúc sắp trao thành cho quân Phú Lãng Xa tức quân Pháp, nhằm tránh cho lê dân khỏi bị nạn binh đao trước mắt, cụ đã để lại một bức thư tuyệt mệnh trong đó có câu:
“Hỡi các quan và lê dân! Các người có thể sống dưới sự điều khiển của người Phú Lãng Xa. Những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà thôi. Nhưng lá cờ ba sắc[cờ Pháp] không thể bay phất phới trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống”
(Trích thư của cụ Phan gửi cho hai vị quan Tổng Đốc Miền Tây)
Do sự kiện Pháp quân chiếm mất thành trong lúc điều đình mà vua quan triều Nguyễn hồi đó đã giáng cách cụ để trút trách nhiệm mất đất lên vai cụ. Sau này, khi Việt Minh (Không dùng từ này) cầm quyền, cụ cũng bị gán tội phản quốc và do dó, Tượng Phan Thanh Giản dựng tại sân Trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ bị chính quyền (Không dùng từ này) đập bỏ ngay sau 30 Tháng Tư, 1975; ảnh cụ bị đạn của cán bộ CS bắn xuyên qua tim (coi: Đặc San Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ, Houston, Texas, 2007, trang 23-24 ).

PHAN THANH GIẢN
Vậy thì,
Phan Thanh Giản là ai?
Cụ được nuôi dưỡng và dạy dỗ như thế nào?
Con đường thi cử của cụ như thế nào?
Cụ làm quan với những chức vụ gì?
Tại sao cụ bị giáng chức tới năm lần?
Tại sao cụ trao thành Vĩnh Long cho Pháp và uống thuốc độc tự vẫn.
Tại sao một số các vua quan Triều Nguyễn lên án cụ?
Tại sao Đảng (Không dùng từ này) VN đã lên án cụ?
Hiện nay cụ được (Không dùng từ này) phục hồi danh dự của cụ như thế nào?
Người dân tôn vinh cụ như thế nào?
Cụ có xứng đáng được vinh danh là bậc đại trí, đại dũng, và đại nhân không?

THÂN THẾ PHAN THANH GIẢN
Phan Thanh Giản sinh Giờ Thìn, Ngày 12 tháng Mười, Bính Thìn (1796), đời Lê Cảnh Hưng; mất vào đêm mồng Bốn rạng ngày mồng Năm tháng 7 năm Đinh Mão (1867) sau khi tuyệt thực 17 ngày rồi uống thuốc độc tự vẫn; hưởng tho 72 tuổi. Linh cữu an táng tại làng Bảo Thạnh, Kiến Hòa.
Phan Thanh Giản lấy tên tự là Tịnh Bá và Đạm; hiệu là Lương Khê; biệt hiệu là Mai Xuyên. Sau khi thi đậu, cụ cưới vợ người đầu tiên người làng Cần Giuộc. Bà này mất, cụ tục huyền với bà Trần Thị Hoạch ở Quảng Trị và đưa vợ về Kiến Hòa để lo phụng dưỡng cha mẹ. Trong dịp này, cụ làm một bài thơ để tạ ơn vợ đã thay cụ báo hiếu cha mẹ.
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông
Đường mây cười tớ ham dong ruổi
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng
Ơn nước, nợ trai đành nỗi bận
Cha già, nhà khó, cậy nhau cùng
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng
(tham khảo: Vĩnh Long Xưa và Nay của Huỳnh Minh, 1967)
Tương truyền tổ phụ cụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu là Ngẫu Cừ, sống dưới đời Nhà Minh.Sau đó Phan Thanh Tập di cư sang Việt Nam cư ngụ tại Phủ Hoài Sơn, Bình Định. Phan Thanh Tập có một con trai là Phan Thanh Ngạn tục kêu là Xán. Năm 1771, gia đình ông Ngạn di vào Nam, ngụ ở Thanh Trông, Định Tường. Sau dời về Mân Thích, Vĩnh Thanh, Vĩnh Long; rồi lại dời về Huyện Bảo An, Hoằng Trị, Vĩnh Long. Cuối cùng, ông lại dời về thôn An Hòa, Tân Thạnh, Vĩnh Bình., phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh Thạnh; nay là xã Bảo Thạnh, Bai Tri, Bến Tre. Ông cưới vợ là bà Lâm Thị Bút sinh hạ ra Phan Thanh Giản. Năm 1802, Phan Thanh Giản được 7 tuổi thì bà mẹ qua đời. Bà mẹ kế là bà Trần Thị Dưỡng rất yêu quý ông và cho ông thụ giáo với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi. Năm 1815, cha của Phan Thanh Giản bị tù oan. Phan Thanh Gian xin với quan cho ông được ở tù thế cho cha. Quan không thể giúp được nhưng tạo cơ hội cho ông ở gần cha và trau giồi kinh sử. Sau khi cha mãn tù, Phanh Thanh Giản ở lại Vĩnh Long tiếp tục học để tạo sự nghiệp.

SỰ NGHIỆP
Năm 1825, cụ đậu Cử Nhân Khoa Ất Dậu.Năm sau, cụ đậu Đệ Tam Giáp đồng Tiến Sĩ. Cụ là người đậu Tiến Sĩ khai khoa ở Nam Bộ. Cụ từng giữ nhiều chức vụ: dưới ba triều Minh Mạnh, Thiệu Trị, và Tự Đức: Lang Trung Bộ Hình, Tham Hiệp Quảng Bình và Giám Khảo Thi Hương Thừa Thiên; Hiệp Trấn Quảng Nam, Hàn Lâm Viện, Phó Sứ sang Nhà Thanh, Đại Lý Tự Khanh Cơ Mật Viện, Kinh Lược Trấn Tây, Bố Chánh Tỉnh Quảng Nam, Hộ Lý Tuần Phủ Quan Phòng, Nội các Thừa Chỉ, Tả Thị Lang Bộ Hộ, Thị Lang Bộ Hộ, Binh Bộ Tả Thị Lang, Tham Tri Bộ Binh, Chánh Chủ Khảo Trường Thi Hà Nội, Hình Bộ Thượng Thư, Lại Bộ Thượng Thư, Kinh Lược Sứ, Nam Kỳ Kinh Lược Phó Sứ, Gia Định Tuần Vũ (coi giữ Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, và Hà Tiên), Chánh Tổng Tài Quốc Sử Quán biên soạn bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc Tử Giám Sự Vụ, được cử đi sứ tại Pháp, Trung Hoa, và nhiều nước khác. Năm 1852, Vua Tự Đức ban cho cụ tấm kim khánh khắc “Liêm, Bình, Cẩn, Cán” [Ngay Thật, Công Bằng, Cẩn Thận, Siêng Năng].
Cụ bị giáng chức 5 lần. Lần thứ nhất lúc cụ bị thất bại khi dẹp loạn Cao Gồng ở Chiên Đàn, phía bắc Quảng Nam. Lần thứ hai cụ bị giáng chức vì can gián Vua Minh Mạng trong chuyến ngự du Quảng Nam với lý do là dân tình Quảng Nam lúc đó đang đói kém. Lần thứ ba cụ bị giáng vì lỗi thuộc viên sơ ý không đóng dấu triện vào một tờ sớ. Lần thứ tư cụ bị giáng vì ông không ký vào bản án Cơ Mật Viện buộc tội Tổng Đốc Bình Định xin vua hủy bỏ bản tuồng Lôi Phong Pháp lý do vở tuồng có lời lẽ bôi bác, chế nhạo Trời, Đất, và các Thần Minh. Lần thứ năm, cụ bị kết tội bất cẩn khi ông làm Phó Chủ Khảo Trường Thi Thừa Thiên. Cuối cùng, cụ bị giáng cách vì thực dân Pháp tráo trở chiếm đoạt thành Vĩnh Long trong lúc còn đang diều đình. Thực tế, cụ xét thấy tình thế không thể cứu vãn được nữa và để cứu lê dân trước mắt khỏi bị nan binh đao, nên cụ trao thành cho Pháp rồi uống thuốc độc tự vẫn. Vua và một số quan lại xiểm nịnh lên án cụ nặng nề khiến cho sau này Đảng (Không dùng từ này) lợi dụng cơ hội cũng biếm nhục cụ đủ điều. Nhưng tấm lòng son sắt của cụ đối với quốc gia và dân tộc đã được trời xanh soi sáng và ngày nay tên tuổi của cụ đã được phục hồi. Xét cuộc đời và sự nghiệp văn thơ, chính trị của cụ, cụ quả xứng đáng là một bậc đại trí, đại nhân, và đại dũng.
Mặc dầu trên vai cụ nhiều gánh nặng quốc gia phải chu toàn, cụ Phan vẫn hoàn tất nhiều tác phẩm rất giá trị về văn học và chính trị như sau:
Lương Khê Thi Thảo (454 bài thơ); Lương Khê Văn Thảo; Sứ Thanh Thi Tập; Tây Phù Nhật Ký; Ước Phu Thi Tập; Tích Ung Ca Hội Tập; Sứ Trình Thi Tập; Việt Sử Thông Giám Cương Mục; và Minh Mạng Chính Yếu.
Năm 1864, lúc làm Kinh Lược trấn nhậm Vĩnh Long, cụ Phan và Nguyễn Thông phụ tá xây dựng Văn Thánh Miếu thờ Đức Khổng Tử và Văn Xương Các làm nơi hội họp xướng họa thi văn. Tại Vĩnh Long ngày nay, Tòa Văn Xương Các có thờ chân dung của cụ và bài vị của Võ Trường Toản. Năm 1966, Tỉnh Trưởng Vĩnh Long Huỳnh Ngọc Diệp và thân hào nhân sĩ tỉnh dựng tượng đồng để tưởng nhớ công đức của cụ.

VÀI NÉT VỀ ĐẤT NAM KỲ THUỞ XA XƯA
Đất Nam Kỳ xưa kia được khai khẩn và mở mang do công lao của ai?Theo tài liệu trong cuốn Vĩnh Long Xưa và Nay của Huỳnh Minh (1967) thì, kể từ năm 1679, xẩy ra có một số tướng sĩ Nhà Minh, Trung Quốc chạy sang Việt Nam lánh nạn khủng bố của Nhà Mãn Thanh. Họ được Chúa Nguyễn Hiền Vương ở Huế chấp thuận cho vào khai khẩn miền Nam. Nhóm thứ nhất do Huỳnh Tấn dẫn đầu đến lập nghiệp tại khu vực Bà Rịa và Biên Hòa bây giờ. Nhóm thứ hai do Dương Ngạn Địch dẫn bộ hạ theo dường sông vào định cư ở Gò Công, Định Tường. Nhóm thứ ba do Mạc Cửu lập nghiệp ở Hà Tiên. Đến thời Chúa Nguyễn Phúc Chu (1725- 1738) mới có thêm đất Vĩnh Long (1732).
Nam Kỳ dưới thời Chúa Nguyễn được mở mang khai khẩn và được chia làm 3 dinh (Dinh: là đơn vị hành chánh tương đương với Vùng hay Khu ngày nay) và một trấn. Đó là Biên Dinh (Biên Hòa), Phiên Dinh (Gia Đinh), Long Hồ Dinh (Vĩnh Long), và Hà Tiên Trấn (Hà Tiên). Đất Vĩnh Long được hình thành từ năm 1732 dưới thời Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Chu (1725-1738) mang tên là Châu Định Viễn, thuộc Long Hồ Dinh [Long Hồ Dinh, và mở thêm 4 huyện là Long Xuyên, (Cà Mâu), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), và Trấn Di (Bắc Bặc Liêu)]
Đất Vĩnh Long hay là Châu Định Viễn hồi đó rất rộng lớn bao gồm một phần Bến Tre ở phía bắc và Trà Vinh ở phía nam, và là bộ mặt văn hóa của Miền Tây (tương tự như thành phố Tây Đô Cần Thơ bây giờ). Cho tới năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thua và phải dâng Chúa Nguyễn Phúc Khoát hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công). Hai phủ này sáp nhập vào Châu Định Viễn. Thế là hồi đó, đất Vĩnh Long bao gồm cả Tân An và Gò Công bây giờ.
Năm 1759, một lần nữa, Nặc Tôn (con Nặc Nguyên) lại dâng thêm đất Tầm Phong Long tức vùng Châu Đốc và Sa Đéc bây giờ. Các miền đất mới này lại được sáp nhập vào Châu Định Viễn, Long Hồ Dinh. Công lao mở mang đất mới này là của Nguyễn Cư Trinh, một vị quan tài kiêm văn võ. Để bảo vệ hữu hiệu hơn và vì tính cách quan trọng về giao thương, Nguyễn Cư Trinh cho dời Long Hồ Dinh qua Tầm Bào (nay là Thị Xã Vĩnh Long) và chọn nơi này làm thủ phủ của Miền Tây. Tại đây, khoảng những năm đầu của thập niên 1770, đã diễn ra nhiều trận đánh giữa quân của Nguyễn Lữ (Tây Sơn) và quân của Tống Phước Hiệp, Nhà Nguyễn có trợ lực của quân Xiêm.
Năm 1787 quân Chúa Nguyễn bắt đầu thắng thế và lấy được Thành Gia Định, rồi chiếm được toàn Miền Nam. Từ đó đất Miền Nam chính thức mang tên là Gia Định và chia làm 4 trấn: Phiên Trấn (tức Gia Định cũ), Biên Trấn (Biên Hòa), Vĩnh Trấn hay Hoằng Trấn (Vĩnh Long, Châu Định Trấn, hay Long Hồ), và Định Trấn (Cần Thơ, Sóc Trăng, Bặc Liêu).
Năm 1808, Vua Gia Long đổi tên Hoằng Trấn thành Vĩnh Thanh Trấn và ấn định thêm một trấn mới nữa là Hà Tiên Trấn gồm Hà Tiên, Rạch Giá và Cà Mâu. Trong đời Gia Long, đất Vĩnh Long được cai quản bởi 3 vị Tổng Trấn là Quận Công Nguyễn Văn Nhân (1801-1805); Tổng Trấn Lê Văn Duyệt (1806-1815); và Tổng Trấn Quận Công Nguyễn Huỳnh Đức (1816 — 1819).
Năm 1820, Vua Minh Mạng lên ngôi, đất Vĩnh Long vẫn mang tên là Vĩnh Thanh Trấn cho tới năm 1832 mới đổi tên thành Vĩnh Long Trấn. Đây là giai đoạn Vua Minh Mạng hài tội Lê Văn Duyệt một cách độc đoán mặc dầu Lê Văn Duyệt đã qua đời khiến dân chúng bất mãn và con nuôi của ông là Lê Văn Khôi công phẫn nổi lên chống Triều Đình. Ngay sau khi Tổng Trấn Lê Văn Duyệt mất, Vua Minh Mạng bãi bỏ chức vụ Tổng Trấn Gia Định và chia đất Miền Nam thành 6 tỉnh gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh gồm 3 tỉnh Miền Đông là Gia Định, Biên Hòa, Định Tường và 3 tỉnh Miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Mỗi tỉnh đứng đầu là quan Tuần Phủ. Hai hay ba tỉnh có một quan cai quản gọi là Tổng Đốc.
Dưới thời Tự Đức, nhà vua đặt ra một chức để cai quản toàn Miền Nam gọi là Kinh Lược Đại Sứ. Năm 1850 (Tự Đức Thứ Ba), Thượng Thư (Bộ Trưởng bây giờ) Bộ Công Nguyễn Tri Phương được cử làm Kinh Lược Đại Sứ Nam Kỳ, kiêm Tổng Đốc Định-Biên (Gia Định + Biên Hòa), kiêm Tổng Đốc Long-An (Vĩnh Long + An Giang).
Năm 1851, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh Lược Phó Sứ phụ tá cho Nguyễn Tri Phương. Bấy giờ Phan Thanh Giản đặt Tổng Hành Dinh tại Thành Vĩnh Long và bắt đầu từ đó cụ khởi sự trách nhiệm đối phó với ý đồ xâm lấn của thực dân Pháp.

Bối Cảnh Xã Hội: Triều Đình

Cấm Đạo và Bế Môn Tỏa Cảng
- Dân Tình Bất Mãn
- Tây Phương Gây Hấn

Nước ta khởi sự dính líu với người Pháp bằng Hiệp Ước Versailles ký ngày 28.11.1787 giữa Chính Phủ Pháp và Bá Đa Lộc, đại diện cho Nguyễn Ánh tức vua Gia Long sau này.Trong chuyến đi, Bá Đa Lộc dẫn theo Hoàng Tử Cảnh, 4 tuổi, làm con tin. Nội dung hiệp ước: Pháp giúp cho Nguyễn Ánh 4 tầu chiến, 1200 lính, 200 pháo binh, 250 lính Phi , quân trang, quân phí, v.v. Đổi lại, triều đình phải dành cho Pháp quyền sở hữu tuyệt đối về Cảng Hội An và Đảo Côn Lôn. Tuy nhiên vì tình thế nước Pháp rối loạn nên hiệp ước không thi hành được. Bá Đa Lộc phải vận động một số tư bản Pháp hùn nhau bỏ tiền mua tầu và súng sang giúp Nguyễn Ánh.
Trong thời gian đầu sau khi thành công trong việc triệt hạ Nhà Tây Sơn và thống nhất đất nước, Vua Gia Long còn tỏ ra biết ơn và ưu đãi người Tây Phương. Trong một lá thư viết hồi tháng 7.1802, giáo sĩ Labartette nhận định: “Nhà vua [Gia Long] ưu đãi đạo thánh của chúng ta vượt quá sự mong muốn. Nhà vua biết ơn sâu xa Bá Đa Lộc - người đã cứu giúp bản thân nhà vua và dòng họ ông - và mỗi lần nhắc tới giám mục thì ông lại rưng rưng nước mắt”. Nhưng trong một lá thư viết vào năm 1812 thì giáo sĩ bày tỏ một sự e ngại : “Chừng nào nhà vua còn trị vì thì chúng tôi vẫn còn hy vọng được tự do hành đạo. Nhưng sau khi nhà vua mất đi thì e rằng mọi việc sẽ thay đổi hết.” Sự kiện này chứng tỏ Vua Gia Long trong lòng không ưa gì người Pháp.
Điều e ngại này đã trở thành sự thật. Sau này, Giáo sĩ Louvet ghi nhận: “Năm 1817, Gia Long chọn ông Hoàng Chi Đảm [tức Minh Mạng] nối ngôi. Sự lựa chọn này bị phần đông quan lại chỉ trích [trong đó có Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt] và trở thành một tai họa lớn cho quốc gia và cho nhà thờ ở xứ sở này. Ông vua kế vị Gia Long đã quyết tâm cự tuyệt người Phương Tây và nền văn minh của họ. Ông ta xô đẩy triều đình lao vào việc tàn sát đẫm máu. Để rồi sau 40 năm dẫn đến cuộc can thiệp của người Pháp và sự phân liệt quốc gia. Chưa bao giờ vua Gia Long lại thiếu ý thức bằng cái ngày ông ta quyết định một sự lựa chọn như vậy, mặc dầu những viên quan cận thần nhất đã hết sức ngăn cản Vua.”
Thực vậy, ngay sau khi Gia Long nằm xuống, vua Minh Mạng thi hành ngay chính sách bài Gia Tô Giáo và “bạch quỷ” Tây Phương: lãnh sự Pháp không được thừa nhận; đặc sứ Pháp không được tiếp kiến; thuyền trưởng Pháp không được lên bờ; giáo sĩ bị tử hình v.v. Vua Minh Mạng từ chối ký kết hiệp ước thương mại với vua Louis XVIII và nói với ông Chaigneau, một viên quan Pháp phục vụ cho triều đình bấy giờ rằng: “Cần gì có hiệp ước thương mại. Nước Pháp ở quá xa nước chúng tôi. Làm sao thần dân của chúng tôi lại có thể đi buôn bán với người của nước ông được?” Ông Chaigneau nhắc nhở: “Nếu nhà vua từ chối ký hiệp ước thì nước Pháp sẽ có ý nghĩ không tốt về nhà vua.” Vua Minh Mạng trả lời: “Người ta không thể đòi hỏi khác được vì tôi không muốn ký một hiệp ước mà xem ra nó chẳng có ích lợi gì.”
Sau này Minh Mạng có thay đổi tư duy, cử người sang Pháp điều đình, nhưng bị vua Pháp từ chối tiếp kiến vì vua Pháp coi “Minh Mạng là kẻ thù của Gia Tô Giáo.”Vua Thiệu Trị và Tự Đức kế vị sau đó càng tỏ ra kỳ thị “bạch quỷ” tây phương ngặt nghèo hơn và sự “cởi mở” hay “mở cửa” đón tây phương của triều đình sau đó mới áp dụng thì đã muộn. Bắt đầu từ năm 1850, Nã Phá Luân III quyết định thực hiện dùng võ lực xâm chiếm VN.
Tóm lại, sự bất tài và tinh thần thủ cựu và tự tôn của các vua Triều Nguyễn thể hiện trong chính sách bế môn tỏa cảng, bài bác Gia Tô Giáo, và khinh miệt người Tây Phương là những nguyên nhân chính dẫn tới sự kiện dân tình bất bình, đất nước loạn lạc, và rồi mất vào tay Pháp. Thật vậy, trong thời vua Gia Long có tới 70 cuộc nổi dậy; trong thời Minh Mạng có tới 230 cuộc tạo loạn; và trong 7 năm ngắn ngủi của Thiệu Trị có 50 cuộc nổi loạn; và trong thời Tự Đức có 40 cuộc nổi dậy. Tiếng oán thán cùa dân chúng thể hiện trong bài hịch của Nông Văn Vân:
Mười lăm năm đức chính có chi?
Kho hình luật vẽ nên hùm có cánh
Ba mươi tỉnh nhân dân đều oán
Tiếng oan hào kêu dậy đất không lông

PHÁP KHỞI HẤN CHIẾM VĨNH LONG: PHANH THANH GIẢN LÃNH SỨ MẠNG ĐIỀU ĐÌNH RỒI TỰ VẪN
Ngày 22.4.1857, Napoléon III quyết định thành lập “Hội Đồng Nam Kỳ” với nhiệm vụ duyệt xét lại Hiệp Ước Versailles nhưng thực chất là hợp thức hóa việc đem quân qua xâm chiếm nước ta.
Ngày 31.8.1858, Đô Đốc Rigault de Genouilly phối hợp với quân Tây Ban Nha bắt đầu nổ súng vào Cảng Đà Nẵng.Viên Trấn Thủ Đà Nẵng được lệnh “an binh bất động”. Nguyễn Tri Phương được cử làm Tổng Chỉ Huy mặt trận Đà Nẵng - Quảng Nam.
Ngày 10.2.1859, Pháp đánh chiếm Vũng Tầu và ngày 17.2 Pháp tiến đánh Thành Gia Định. Lúc này cuộc chiến giữa Trung Hoa và Pháp nổ ra khiến Pháp phải rút một phần lực lượng ở Đà Nẵng và Saigòn qua Trung Hoa. Triều đình lúc đó không nắm được cơ hội ngàn năm một thuở này để tổng phản công; lại để cho Tướng chỉ huy Mặt Trận Gia Định lúc đó là Tôn Thất Hiệp “án binh bất động” với hy vọng “làm nản lòng địch”! Sau này, Nguyễn Tri Phương được điều động thay thế Tôn Thất Hiệp lại chủ trương “công và Thủ” tức là vừa đánh vừa giữ. Ông cho đắp đồn Kỳ Hòa dài 3000 mét, ngang 1000, chia làm 5 khu ngăn cách nhau bằng hàng rào gỗ. Thành xây bằng đất sét cao 3 mét 50, dày 2 m.
Ngày 25.10.1860, chiến tranh Trung Hoa kết thúc, quân Pháp lại trở qua nước ta và quyết nhanh chóng thôn Nam Kỳ. Ngày 23.2.1861, quân Pháp mở cuộc tấn công phá đại Đồn Chí Hòa. Tướng Charner, Tổng Tư Lệnh quân đội Pháp, ghi trong nhật ký: “Quân địch kháng cự rất mãnh liệt ... Quân ta tổn thất khá nhiều: 225 lính bị loại khỏi vòng chiến. Ngày 12.3.1861, quân Pháp coi như đã chiếm xong vùng Gia Định. Một báo cáo của Tổng Chỉ Huy Nguyễn Bá Nghi gửi về Triều Đình Huế tâu: “Tình thế đã đến lúc “đánh và giữ” đều không được. Trừ một chước Hòa, tôi chỉ còn chịu tội.”
Trong giai đoạn chống Pháp này, toàn dân khắp nơi đều tự động nổi lên chiến đấu. Nhưng các lực lượng này phần lớn là tự phát và không có kết hợp với nhau. Một tác giả Pháp, Pallu de la Barrière, ghi chép rằng: “Thực tế đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến. Cuộc kháng chiến có cơ sở và hệ thống khắp nơi. Có thể nói rằng có bao nhiêu người Việt thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến. Đúng hơn là phải xem mỗi người nông dân đang bó lúa là một trung tâm kháng chiến. (Xem: Histoire de L'expédition de Cochinchine en 1861, Paris, 1864, tr. 248).

HÒA ƯỚC 5.6.1862: MẤT BA TỈNH MIỀN ĐÔNG
Đồn Kỳ Hòa bị mất.Nguyễn Tri Phương bị trọng thương phải đưa về Kinh chữa trị. Ngày 1.4.1861, Quân Pháp thừa thắng tiến đành Định Tường. Triều đình sai Nguyễn Tri Phương đem hai vệ quân phối hợp với quan của Nguyễn Ba Nghi vào cứu viện. Quân cứu viện chưa tới nơi thì quân Pháp đã tiến đánh Thành Vĩnh Long ngày 20.3.1862. Tổng Đốc Trương Văn Uyển bỏ thành chạy. Như vậy, kể từ tháng 9 năm 1858 đến tháng 3, 1862, Pháp quân chiếm được 4 thành: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, và Vĩnh Long.
Trước tình thế đó, triều đình cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đứng ra thương thuyết chuộc lại đất. Do đó, Hòa Ước ngày 5/6/1862 ký tại Saigon hình thành gồm 12 điều khoản trong đó có điều khoản quy định 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, và Đảo Côn Lôn tức Côn Đảo phải nhượng đứt cho Pháp. Ngoài ra triều đình còn phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha trong vòng 10 năm một khoản tiền bồi thường chiến phí là 4 triệu đồng tương đương với 288 ngàn lượng bạc. Đổi lại, Pháp sẽ trả lại Vĩnh Long với điều kiện Triều đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống Pháp.
Trong phái bộ Việt Nam đi ký hòa ước có một linh mục người Việt tên là Đặng Đức Tuấn, người kể lại sự kiện ký hòa ước trong bài “Lâm Nạn Phụng Quôc Hành” như sau:
Làm hai tập nữa dâng vào
Thánh Thượng ngự lãm định giao cuộc hòa
Dạy quan Cơ Mật truyền ra
Tư cho các tỉnh hay qua chuyện này
Triều đình đã định làm vầy
Sai Đặng Đức Tuấn vào Tây giảng hòa
...
Vì còn nhiều việc khả nghi
Chưa biết bàn định lẽ gì cho hay
Thượng quan đòi Tuấn hỏi ngay
Tây xin làm vậy, Tuấn bày làm sao?
Tuấn rằng “Ông Lớn lượng cao
Sớ tâu Hoàng Đế xin vào Đồng Nai
Cho tôi tùng phái với Ngài
Tôi dám quả quyết không ai làm gì
Hòa đặng thì ta hòa đi
Bằng hòa chẳng dặng, ta thì về ngay
Quan Lâm vào tấu nội ngày
Vua ban sắc hạ y rày lời xin
Quan Phan ở cửa nghe tin
Cũng vào thính chỉ đặng in như lời
(Xem: Tinh Hoa Công Giáo Ái Quốc Việt Nam, 1970, Saigon, Lam Giang, Võ Ngọc Nhã, Đặng Đức Tuấn).
Việc chuộc 3 tỉnh bất thành, Vua Tự Đức và nhóm quan lại nịnh thần đã khiển trách Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp không làm tròn nhiệm vụ nhưng vẫn cử Phan Thanh Giản làm Tổng Đốc Vĩnh Long và chỉ thị tiếp tục cố gắng tìm cách thương thuyết lại với Pháp. Nhưng các nỗ lực thương thuyết đều không có kết quả. Đời sau có kẻ dựa vào việc Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký vào hiệp ước trên mà quy tội cho hai ông bằng câu “Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khi dân” (Phan, Lâm bán nước, triều đình coi thường dân chúng) và sau đó, Đảng (Không dùng từ này) Việt Nam cũng lợi dụng câu nói trên để lên án cụ Phan là phản quốc. Tuy nhiên, trong vài thập niên gần đây đã dấy lên nhiều cuộc hội thảo đòi (Không dùng từ này) VN phải phục hồi danh dự cho cụ Phan.
Ngày 4 tháng Ba, năm 1863, để tìm cách chuộc lại 3 tỉnh Miền Đông, Vua Tự Đức bèn cử Phan Thanh Giản dẫn đầu phái đoàn đáp Tầu L'Européen qua Pháp điều đình với Hoàng Đế Napoleon III. Cùng đi với cụ Phan có Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, và 53 tùy viên trong đó có Trương Vĩnh Ký làm thông dịch viên. Trước khi lên đường, cụ Phan làm bài thơ Thuật Hoài đễ giãi bày tấc lòng như sau:
Chút nghĩa vương mang phải gắng đi
Tang bồng đành rõ chí nam nhi
Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc
Khói đá phăng phăng lướt tích ti
La Hán dang tay chờ khách đến
Tướng quân ghé mắt hẹn ngày về
Phen nay miễn đặng hòa hai nước
Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi!

Đề nghị giảng hòa tố cáo tâm trạng tuyệt vọng của Tự Đức nếu không muốn nói đó là thái độ đầu hàng. Tình trạng hòa hoãn này làm cho các quan đầu tỉnh bó tay không dám động tĩnh gì. Lợi dụng tình thế đó, quân Pháp súc tiến chiếm đoạt Nam Kỳ.
Sau một tháng điều đình (khoảng giữa tháng 6 đến giữa tháng 7), Aubaret, đại diện chính phủ Pháp và Phan Thanh Giản ký bản hiệp ước gồm 21 điều khoản. Đại cương: Pháp trả lại cho nhà vua ba tỉnh miền đông nhưng vẫn làm chủ Saigon, Thủ Dầu Một, và Mỹ Tho. Triều đình Huế phải thừa nhận sự bảo hộ của Pháp trên lục tỉnh. Các diều khoản khác về thương mại, truyền giáo, v.v. vẫn giữ nguyên như trong Hòa Ước 1862.
Thỏa ước Aubaret-Phan Thanh Giản này bị nhiều nhân vật Pháp trong đó có Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa Chasseloup Laubat cực lực phản đối.Một trong ba bức thư hiện tìm thấy tại Kho Lưu trữ Quốc Gia Paris, Pháp khẩn thiết yêu cầu không cho Phan Thanh Giản chuộc đất nói lên ý đồ của thực dân Pháp muốn trước sau thôn tính nước ta. Nội dung lá thư được sơ lược như sau:
“Tôi thừa nhận phái bộ An Nam hiện đang ở Paris là cơ hội cho các điều đình về thương mại tất yếu sẽ dẫn tới việc chinh phục hoàn toàn toàn xứ này.Nhưng không phải vì vậy mà chúng ta rút đạo quân viễn chinh về nước để đổi lấy một khoản bồi thường chiến phí dù khoản đó lớn đến bao nhiêu đi nữa ... Việc chinh phục dứt điểm Nam Kỳ sẽ mở rộng ảnh hưởng của Pháp ... Phan Thanh Giản, sứ giả của An Nam đầu tiên và đồng thời cũng là Phó Vương của ba tỉnh còn lại và là Tổng Đốc Vĩnh Long. Tốt hơn hết là chúng ta lôi kéo cho được nhân vật quan trọng này ...”
Cuối cùng Napoléon III quyết định hủy bỏ tạm ước.Tuy nhiên, về phía triều đình Huế, Vua Tự Đức lại cử Phan Thanh Giản làm Khâm Sai Đại Thần ở ba tỉnh miền tây và tiếp tục thi hành lệnh giải giới quân đội và nghiêm trị những người nổi loạn. Kết quả của hành động này giúp Pháp chóng và dễ dàng thôn tính nước ta mà trước mắt là chiếm ba tỉnh miền tây: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên khiến Phanh Thanh Giản đã không thể làm gì hơn là bỏ trống thành cho Pháp rồi tự vẫn.

MẤT BA TỈNH MIỀN TÂY: PHANH THANH GIẢN TUYỆT THỰC TỰ VẪN
Tờ mờ sáng ngày 17.6.1867, Tướng Pháp De Lagrandière hội 1400 quân tại Định Tường rồi kéo qua vây hãm Thành Vĩnh Long đồng thời trao tồi hậu thư buộc Phan Thanh Giản dự cuộc hội đàm ngay trên tầu của Pháp.Cuộc hội đàm diễn ra ngắn ngủi và bất lợi, cụ Phan xin đình lại để hỏi ý kiến Triều Đình. Lợi dụng lúc cụ Phan xuống tầu điều đình, quân Pháp đổ bộ chiếm thành Vĩnh Long. Rồi những ngày kế tiếp, quân Pháp kéo rốc xuống chiếm An Giang và Hà Tiên một cách dễ dàng.
Trong tình cảnh đó, cụ Phan ung dung vào ngụ trong một chòi tranh và bắt đầu tuyệt thực.Thật đúng là thái độ của bậc hiền nho, quân tử: “thung dung tựu nghĩa” có nghĩa là bình thản đón cái chết cho tròn nghĩa. Triều đình Huế nhận được tin mất ba tỉnh miền tây bèn gửi chiếu chỉ vào bãi chức cụ và cho đục tên cụ trên bia tiến sĩ ngoài Huế để trút hết trách nhiệm của triều đình lên vai cụ. Cuộc tuyệt thực kéo dài tới 17 ngày mà cụ vẫn chưa chết. Có lẽ nỗi oan ức phải nín lặng đã khiến cụ không dễ gì nhắm mắt. Cuối cùng cụ phải uống thuốc độc và ra đi vào lúc nửa đêm mồng 4 rạng mồng 5 tháng 7 năm Đinh Mão (1867); lúc đó cụ được 72 tuổi.
Linh cữu của cụ Phan được đem về mai táng tại làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, Bến Tre.Rất nhiều quan An Nam và Pháp tới phân ưu. Cụ Tú Tài Nguyễn Đình Chiểu ở Chợ Ba Tri làm một bài thơ khóc cụ, coi cụ như một vị trung thần vị quốc vong thân.
Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây trắng cõi Ngao Châu
Ba triều công cán vài hàng sớ
Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu
Trạm bóng ngày chiều, tin điệp vắng
Thành Nam, đêm quạnh bóng quyên sầu
Minh tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ đây mặc gió thu

Sau khi cụ Phan mất, các con của cụ là Phan Tôn, Phan Liêm vâng lời di chúc tuyệt đối không hợp tác với Pháp mặc dầu người Pháp hứa ban cho nhiều bổng lộc. Hơn thế nữa, hai ông còn đứng lên gọi đàn, tổ chức nghĩa quân kháng Pháp tại Vĩnh Long, Trà Vinh, Sa Đéc, Bến Tre. Sau đó hai ông ra Hà Nội chiến đấu trong hàng ngũ của Nguyễn Tri Phương. Hai ông bị bắt làm tù binh ngày 20.11.1873, rồi được trao trả cho Triều Đình Huế sau Hòa Ước năm Giáp Tuất (1874). Cụ Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ lòng cảm phục nghĩa khí của Phan Liêm, Phan Tôn qua 10 bài thơ điếu Phan Công Tòng Tử Nghĩa ở Giồng Gạch. Trích mấy câu như sau:
Trống nghĩa Bảo An nghe sấm dậy
Cờ đề Công Tử guộng mây qua
Trái với sự dự đoán của Pháp, sau khi cụ Phan qua đời, nghĩa quân nhiều nơi, hết nhóm này tới nhóm khác, liên tục nổi lên chống Pháp như Đinh Sâm ở Láng Hầm, Phong Điền, Cần Thơ; Phan Lữ, cháu cụ Phan tử trận tại làng Phù Ngải, huyện Bảo An, Bến Tre. Ngày 16.6.1868, Nguyễn Trung Trực nổi lên ở Rạch Giá và Phú Quốc. Năm 1870 đến 1872, Quản Hớn lập chiến khu ở 18 Thôn Vườn Trầu tại Gò Vấp, Hóc Môn, Bà Điểm. Nguyễn Hữu Huân người Định Tường khởi nghĩa từ 1859. Năm 1864 ông bị bắt và bị đày đi Cayenne (Nam Mỹ). Trở về, ông lại tiếp tục chiến đấu. Cuối cùng Nguyễn Hữu Huân bị bắt giải về xử tử tại Bến Tranh, Mỹ Tho ngày 19.5.1875.

GÁN GHÉP TỘI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ CHO PHAN THANH GIẢN.
Triều đình Nhà Nguyễn gán ghép tội cho cụ Phan như thế nào?
Trước hết phải kể tới sự kiện triều đình Tự Đức gán ghép tội cho cụ. Sau khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh miền Nam, Triều Đình Tự Đức trút hết trách nhiệm cho cụ về tội để mất thành với những lời buộc tội rất nặng nề như: “Xét phải tội chết chưa đủ che được tội.” và quyết định: “truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi mãi cái án giam hậu.”
Sự thật cụ Phan có đầu hàng Pháp và để mất thành không? Các nhà phân tích sử liệu sau này căn cứ vào tư cách và nhân cách cao quý của cụ Phan để đưa ra kết luận là: Trước họa xâm lược của Pháp, vua tôi triều Nguyễn tỏ ra rất bị động và lúng túng. Trong triều chia ra người chủ chiến, kẻ chủ hòa, người lo chống giữ lâu dài. Vua Tự Đức thì tỏ ra phân vân và có thái độ chủ hòa hơn là chủ chiến nên nhà vua đã cho lịnh “tư cho quan Kinh Lược không đánh nhau với quân Pháp, tự phải rút lui. Tư liệu lịch sử cho thấy Phan Thanh Giản không đầu hàng và không nộp thành cho giặc như miêu tả trong một số tư liệu của Pháp. Việc mất ba tỉnh Miền Tây là hậu quả của chủ trương sai lầm của Vua Tự Đức. Tuy nhiên, năm 1886, Vua Đồng Khánh cho khôi phục nguyên hàm và khắc lại tên cụ trên bia tiến sĩ.
Đảng (Không dùng từ này) VN đã lên án cụ Phan và phục hồi danh dự cho cụ như thế nào?
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945-54, Đảng (Không dùng từ này) VN muốn đưa ra “đấu tố” trên tòa án văn học chính trị một nhân vật điển hình để răn đe tư tưởng chủ hòa của quân, dân, cán, chính.Đảng đã cho Viện Trưởng Viện Sử Học, Giáo Sư Trần Huy Liệu, viết bài lên án cụ Phan.
Tháng 10.1963, Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử công bố bài viết tổng kết của GS Trần Huy Liệu với nhan đề “Chúng Ta Đã Nhất Trí về Nhận Định Phan Thanh Giản”.Qua bài đó, Trần Huy Liệu đã lên án cụ Phan rất gắt gao và đầy hắc ám: “Công đức đã bại hoại thì tứ đức [bốn Đức của Vua Tự Đức ban cho cụ Phan: Liêm, Bình, Cẩn, Cán] còn gì là đáng kể?”; “Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân dân.” và “Phan đã dâng hiến thành cho giặc”. Khi Miền Nam bị rơi vào tay (Không dùng từ này), do những lời kết tội thâm độc đó, tất cả những gì liên hệ đến cụ Phan như thơ văn, đền thờ, tượng đài, tên trường học, tên đường phố, v.v. đều bị các cán bộ hay chính quyền địa phương thẳng tay triệt hạ.
Năm 1994, trước những dư luận nổi lên từ nhiều phía trong và ngoài nước yêu cầu phục hồi danh dự cho Phan Thanh Giản, một cuộc hội thảo được tổ chức tại Vĩnh Long có lẽ là vì nơi đây còn di tích của cụ để lại như Văn Miếu và Văn Xương Các (có chân dung của cụ đặt tại đây) trong khu đất Văn Thánh ở Long Hồ.GS Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử VN, đọc bài tổng kêt có đoạn như sau: “Chúng ta đều nhất trí không nên quy kết cho ông cái tội “bán nước' hay “phản bội tổ quốc”.
Ngày 16 tháng 8 năm 2003, một cuộc tọa đàm diễn ra tại Saigòn do Tạp Chí Xưa & Nay tổ chức với chủ đề - và cũng chính là nhan đề của cuốn sách - “Thế Kỷ thứ 19: Nhìn Về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản”. Khoảng trên một trăm nhân vật tham dự buổi tọa đàm này trong đó có những cán bộ đảng viên cao cấp như: Võ Văn Kiệt, Trần Văn Giàu, và Trần Bạch Đằng. Không thấy có bài tổng kết nào được đưa ra trong cuộc hội họp này. Tuy nhiên, sau đó, nguyên cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt viết một bài đăng với tựa đề “Những Suy Nghĩ Sau hai cuộc Hội Nghị về Nhân Vật Phan Thanh Giản” trong có đoạn viết:
Tôi khẳng định rằng Phan Thanh Giản là một người yêu nước, thương dân mà lo không tròn bổn phận, cụ đã tự làm bản án cho chính mình: đó là cái chết. Một cuộc đòi thanh sạch đáng để lại gương soi cho hậu thế. Sau cuộc tọa đàm tháng 8/2003, tôi đã về thăm mộ cụ PTG và thắp nhang lạy hương hồn cụ. Và tôi cũng quyết định sửa sang lại khu mộ phần và nhà thờ Cụ bởi mộ đã bị thời gian bào mòn quá nhiều. [trích bài “140 Năm Sau” của Nguyễn Như Hùng (Santa Clara, CA) đăng trong Đặc San PTG & ĐTĐ Cần Thơ, tr. 23]
Như vậy, phải chờ tới 40 năm kể từ cuộc hội thảo lần thứ nhất vào năm 1963 trong đó Trần Huy Liệu gắt gao lên án cụ PTG là “chủ bại”, “phản lại quyền lợi của dân tộc”, “dâng thành, hiến đất cho giặc”, đến năm 2003, Đảng (Không dùng từ này) mới cho Võ Văn Kiệt nói lên lời cải tội cho cụ Phan rằng cụ là người yêu nướcthương dân.
(Không dùng từ này) VN có thực tâm phục hồi danh dự cho cụ Phan không?- Không. Vấn đề phục hồi danh dự cho cụ Phan cũng như phục hồi danh dự cho nhóm Nhân Văn Giai Phẩm của cụ Phan Khôi thực ra chỉ là những hành động mà người CS làm cho có hình thức và vì nhu cầu của tình thế cần vuốt ve dư luận bất mãn của đông đảo quần chúng mà thôi. Nên nhớ một sự thật là người (Không dùng từ này) không bao giờ thật tâm làm bất cứ một điều gì cả. Họ dối trá ngay cả với chính bản thân họ để tồn tại.

TỔNG KẾT
Trong hậu bán thế kỷ thứ 19 tức là thời của cụ Phan Thanh Giản, nước ra lâm vào một tình trạng vô cùng loạn lạc: các vua Triều Nguyễn chỉ lo hưởng thụ; triều thần chia rẽ bè phái; nhiều cựu công thần bị bạc đãi; lòng dân bất phục triều đình; nhiều hào kiệt nổi dậy chống triều đình; và đặc biệt là quân Pháp xâm lấn.
Phan Thanh Giản là người có tiếng là tài đức vẹn toàn nên được bổ dụng vào nhiều chức vụ quan trọng.Nhưng chính vì các đức “Liêm, Bình, Cẩn, Cán” mà cụ không có tiền để “quà cáp” với các quan trên nên cụ bị nhiều quan trong triều ganh ghét. Đời cụ bị tới năm lần giáng cấp, nhưng cụ vẫn không bất mãn (như trường hợp của Cao bá Quát), không hề ca thán, và cụ vẫn chăm lo phục vụ. Tại sao một viên quan bị giáng cấp nhiều lần như vậy mà vẫn được nhà vua cử làm chánh sứ đi Pháp, đi Trung Hoa? Tại sao không phải là một vị quan nào khác trong hay ngoài hàng ngũ tôn thất? Như vậy rõ ràng cụ phải là một nhân vật độc đáo của thời đại không ai thay thế được: cụ phải là con người bao gồm đủ cả ba đại đức Nhân, Trí, Dũng và đó chính là ba đức lớn của người quân tử, của kẻ Sĩ mà Khổng Tử đã nói tới trong sách Luận Ngữ rằng “có thể đem vận mệnh quốc gia mà giao cho họ; dẫu có gặp nguy hiểm đến tính mạng thì cũng không làm dao động được họ.”
Một câu hỏi khác: tại sao cụ không vượt thoát ra ngoài để tiếp tục chiến đấu?- Không, cụ không thể làm như vậy được giản dị là vì những lệnh vua Tự Đức đã ban ra là “hưu binh”, “giải giáp”, và nhà vua còn lệnh cho PTG dụ Trương Định giải tán lực lượng nghĩa binh chống Pháp. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có cái chết mới giải thoát cho cụ cái sứ mạng không thể làm được (mission impossible) là lấy lại các tỉnh miền tây đã lọt vào tay quân Phú Lãng Xa.
Nhưng, tại sao cụ lại chọn cái chết kéo dài bằng tuyệt thực mà không tự vẫn ngay với một chén thuốc độc? - Rõ ràng là cụ muốn tỏ ra bình thản đón cái chết - cái mà thường ai cũng sợ - để chứng tỏ với nhóm triều đình khiếp nhược và với bọn quân Pháp hung hãn rằng giống nòi Việt vẫn có những con người coi cái chết nhẹ như lông hồng và không thể khuất phục họ được. Cái chết từ từ đó chính là cái chết mang ý nghĩa trong câu nói “Thung dung tựu nghĩa” vậy.
Nhìn lại cuộc đời sự nghiệp của cụ Phan Thanh Giản, chúng ta sẽ có lỗi nếu không làm cho thật sáng tỏ con người của cụ, một con người có đầy đủ phong cách của một bậc hiền nhân, quân tử không tì vết. Cụ quả có dư điều kiện để xứng đáng phải được vinh danh là một danh nhân trên thế giới như trường hợp của cụ Nguyễn Trãi đã được UNESCO của Hiệp Quốc năm 1980 công nhận là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới.

HẢI BẰNG HOÀNG D. BÌNH
(Arizona)

=========


(Từ trang Web của Chánh Quyền Tỉnh Bến Tre Hiện Nay)

PHAN THANH GIẢN

(1796-1867)


Phan Thanh Giản (1796-1867)


Phan Thanh Giản tự là Đạm Bá, Đạm Như, hiệu là Lương Khê, biệt hiệu là Mai Xuyên, sinh ngày 12 tháng 10, năm Bính Thìn (1796) tại làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Nhà nghèo, mẹ mất sớm, việc học tập của Phan Thanh Giản gặp nhiều khó khăn, nhưng vốn thông minh, hiếu học nên đến năm 30 tuổi, Phan thi Hương, đậu cử nhân tại trường thi Gia Định (1825). Sang năm sau (1826), thi Hội ở kinh đô Huế, Phan đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ và cũng là vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ. Từ đấy, Phan bắt đầu bước sang cuộc đời hoạn lộ, làm quan trải 3 triều, Minh Mạng, Triệu Trị và Tự Đức. Dưới triều Minh Mạng, ông lần lượt giữ các chức Hàn lâm viện biên tu, rồi cải bổ Lang trung bộ Hình (1827), Tham hiệp tỉnh Quảng Bình (1828), quyền nhiếp Tham hiệp tỉnh Nghệ An (1829), Lễ bộ tả thị lang và tham gia Nội các (1830), Hiệp trấn tỉnh Quảng Nam (1831), Hàn lâm kiểm thảo Nội các hành tẩu, Hộ bộ viên ngoại lang (1832), Đại lý tự khanh sung Cơ mật viện đại thần (1834), Kinh lượt trấn Tây (1835), Tuần vũ Quảng Nam (1836), Thống chánh sứ và Phó sứ rồi Hộ thị lang (1839).

Nhìn vào chức tước, ta thấy rõ ràng Phan Thanh Giản được triều đình trọng dụng, nhưng cuộc đời làm quan của Phan cũng không ít long đong. Dưới triều Minh Mạng, Phan đã 3 lần bị giáng chức, có lần phải làm "lục phẩm thuộc viên" giữ việc quét dọn, sắp đặt bàn ghế ở công đường (1836).

Minh Mạng chết, Phan được Thiệu Trị tiếp tục trọng dụng, làm Phó chủ khảo Trường thi Thừa Thiên (1840), Phó đô ngự sử Đô sát viện (1847).

Đến triều Tự Đức, Phan được giao phụ trách giảng dạy và điều khiển Trường Kinh Diên, rồi làm Tổng tài coi việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1848), được bổ chức Thượng thư bộ Lại, sung Cơ mật viện đại thần (1849). Năm 1850, Phan được cử vào trấn nhậm miền Tây Nam Kỳ cùng với Nguyễn Tri Phương. Sau đó lại được phong làm Phó kinh lược sứ Nam Kỳ. Đầu năm 1862, sau khi đồn Kỳ Hòa thất thủ, các tỉnh Biên Hòa, Định Tường bị chiếm, Phan được Tự Đức cử làm Chánh sứ toàn quyền đại thần cùng với Lâm Duy Hiệp vào Nam thương thuyết với yêu cầu tùy nghi chuộc lại các tỉnh đã mất. Nhưng đến ngày 5-6-1862, Phan ký với Bonard (Thiếu tướng hải quân Pháp) và Guttierez (đại tá, chỉ huy trưởng quân viễn chinh Tây Ban Nha ở Nam Kỳ) một hòa ước gồm 12 điều khoản, trong đó có việc cắt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp và bồi thường 4 triệu đô la tương đương với 2.880.000 lạng bạc, trả trong 10 năm. Việc làm này của Phan đã bị Tự Đức quở trách (có lẽ đây là cách tránh tội của nhà vua). Dù vậy, sang năm 1836, Phan lại được Tự Đức cử làm Chánh sứ cùng với Phó sứ Phạm Phú Thứ, Bồi sứ Ngụy Khắc Đản sang Pháp xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông, nhưng không thành.

Tháng 1-1866, trước khi ý đồ lăm le chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây của Pháp, Tự Đức lại cử Phan vào làm Kinh lược sứ trấn giữ Vĩnh Long. Ngày 20-6-1867, Pháp chiếm tỉnh thành Vĩnh Long (lần thứ hai). Phan Thanh Giản đã tuyệt thực, rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 4-8-1867.

Triều đình Tự Đức ghép Phan vào tội "trảm quyết" (nhưng vì đã chết nên tạm miễn), "lột hết chức tước và đục tên trên bia khắc tên các tiến sĩ". Cho đến 19 năm sau (1886), đến đời vua Đồng Khánh ông mới được khôi phục hàm cũ Hiệp biện đại học sĩ.

Cho đến nay, việc đánh giá về nhân vật lịch sử này cũng còn những điểm chưa hoàn toàn nhất trí trong giới nghiên cứu, bởi đây là một nhân vật sinh ra và lớn lên trong một bối cảnh phức tạp đầy biến động, thử thách của lịch sử. Đại thể có 3 loại ý kiến khác nhau về Phan Thanh Giản.

1) Ý kiến cố sức đề cao Phan, cho rằng hành động thỏa hiệp của ông là "thức thời", là vì "thương dân, yêu nước", vì động cơ riêng. Phan có chịu một phần trách nhiệm về việc để mất 6 tỉnh Nam Kỳ, còn kẻ gánh chịu trách nhiệm chính là triều đình nhà Nguyễn.

2) Ý kiến kết tội Phan về việc để mất đất, lại vừa hết lời ca ngợi lòng trung nghĩa của ông.

3) Ý kiến kịch liệt lên án việc cắt đất, giao thành của Phan, coi đó là hành động "hàng giặc, bán nước", coi cái chết của Phan là "trốn trách nhiệm tránh dư luận" chứ không phải cái chết cao cả. Ngay cả đạo đức, tư cách của Phan cũng bị xổ toẹt.

Trước hết, cần xem xét trách nhiệm và tội lỗi của Phan trong việc lần lượt để mất ba tỉnh, rồi sáu tỉnh Nam Kỳ vào tay thực dân Pháp. Tất nhiên, trách nhiệm để mất đất không chỉ có riêng ông mà còn là trách nhiệm của toàn bộ triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ.

Cần nói thêm rằng Phan là một trong những người tích cực chủ hòa với Pháp. Ngay từ khi Pháp mới gây hấn ở miền Nam, ông cũng đã đối lập hẳn với phái chủ chiến trong triều đình. Sai lầm của Phan là kháng – nhưng về mặt ý thức chủ quan, Phan không phải là kẻ cố tình bán nước, ôm chân giặc. Cũng cần nhìn nhận một phương diện khác của con người này là trong suốt cuộc đời làm quan, Phan từng trải qua nhiều bước thăng trầm, cũng như đảm đương nhiều trọng trách, lúc nào ông cũng tâm niệm "vì dân, vì nước", "vì ơn vua, lộc nước", và trong thực tế ông cũng đã nhiều lần biểu lộ trách nhiệm đó một cách thành thực.

Tấm lòng lo cho dân, cho nước của Phan không chỉ bộc lộ trong văn thơ, mà còn thể hiện trong hành động cụ thể khi làm quan ở Huế (1982), ở Quảng Nam (1836), khi trấn nhậm miền Tây (1850).

Chung quanh cái chết của ông cũng có nhiều ý kiến khen, chê khác nhau. có người ca tụng đó là cái chết "nghĩa tiết", cái chết "sát thân thành nhân". Nhiều nhà nho yêu nước lúc bấy giờ tỏ ra rất cảm kích trước cái chết của Phan, cho ông không phải là người tham sống sợ chết. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến phê phán, cho rằng đó chỉ là "cái chết tuyệt vọng", "cái chết của kẻ lâm vào chỗ bế tắc", thậm chí có ý kiến cho rằng Phan tự tử là để "trốn trách nhiệm và tránh dư luận".

Xét trong hoàn cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể lúc bấy giờ, việc Phan uống thuốc độc tự tử là cách chọn cái chết của một người biết mình đã lầm lỡ, biết mình có tội lỗi. Lời nhận xét của Phạm Phú Thứ, người đã cùng Phan Thanh Giản đi sứ Pháp, trong bài văn tế Phan cũng gợi cho chúng ta đôi điều suy nghĩ: “Bề tôi giữ bờ cõi phải chết với bờ cõi. Bỏ sống lấy nghĩa, giết mình nên nhân, ấy là điều mà ông vẫn tin theo".

Tư liệu lịch sử cho thấy Phan Thanh Giản không phải đầu hàng nộp thành cho giặc như sự miêu tả của một số tư liệu của Pháp, nhưng việc để mất 3 tỉnh miền Tây cũng là hậu quả của chủ trương sai lầm của Tự Đức và cả triều đình, trong đó có trách nhiệm của họ Phan. Việc ông tự xử bằng cái chết cũng là một cách "sám hối".


============



PHAN THANH GIẢN

con người, sự nghiệp và bi kịch lịch sử


Phan Huy Lê


1
Trước hết chúng ta cần nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và tính phức tạp trong việc đánh giá nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản (PTG).
Đánh giá về một nhân vật lịch sử, một con người, nói chung đã là một vấn đề phức tạp và tinh tế, đòi hỏi các nhà khoa học phải đặt nhân vật đó vào bối cảnh lịch sử cụ thể với tất cả mối quan hệ phức hợp của hoàn cảnh gia đình, văn hoá, xã hội, điều kiện hoạt động và nhất là yêu cầu phát triển của đất nước trong xu thế chung của thời đại và của khu vực, để phân tích và nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện và thoả đáng về mặt công lao, cống hiến, mặt tích cực cũng như mặt hạn chế và tiêu cực. Tuy nhiên đối với những nhân vật mà công lao và cống hiến đã quá rõ ràng như các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hoá... hay trái lại, những nhân vật mang tội với lịch sử, với dân tộc và nhân loại thì sự đánh giá tương đối dễ dàng hơn và dễ đi đến sự nhất trí hơn. Nhưng trong lịch sử còn có những nhân vật, những con người sinh ra và lớn lên trong một bối cảnh phức tạp, đầy biến động và thử thách của lịch sử và trong cuộc sống cũng như hoạt động bản thân của họ cũng chứa đựng và phản ánh những mâu thuẫn đó, vừa có nhân cách cao đẹp, có công lao đối với dân với nước, vừa có những mặt hạn chế nặng nề, những ứng xử mang tính nghịch lý, thậm chí có khi đi đến bế tắc, tự kết thúc cuộc sống bằng những bi kịch. Đối với những nhân vật loại này, việc nghiên cứu và đánh giá dĩ nhiên gặp nhiều khó khăn và thường tồn tại những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau là hiện tượng dễ hiểu.
PTG là trường hợp khá điển hình thuộc loại hình nhân vật này.
Ngay từ 1867, khi PTG tự kết thúc cuộc đời bằng chén thuốc độc, thì từ trong triều cho đến trong dân gian, đã có những thái độ nhìn nhận và sự đánh giá rất khác nhau về ông.
Vua Tự Đức và triều đình đổ hết tội lỗi cho ông về việc để mất Nam Kỳ lục tỉnh, kết tội ông "xét phải tội chết, chưa đủ che được tội" và nghị án "truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi cái án trạm giam hậu" (1). Nhưng đến năm 1886, vua Đồng Khánh lại "khai phục nguyên hàm" và khắc lại tên ông ở bia Tiến sĩ (2).
Trong lúc đó, những nhà yêu nước đồng thời với ông như nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tỏ thái độ thương tiếc và trân trọng đối với PTG qua bài thơ điếu (cũng có người giải thích cách khác):
Minh tinh chín chữ lòng son tạc Trời đất từ rày mặc gió thu.
Và trong bài "Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong", nhà thơ Đồ Chiểu một lần nữa nêu cao Trương Định và PTG:
"Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh
Ý người đặng xem tấm bản phong trần, Phan học sĩ hết lòng cứu nước".
Nhưng lại có nguồn tin tương truyền rằng, Trương Định lên án PTG bán nước khi đề cờ khởi nghĩa "Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân".
Ở đây chưa bàn về nguồn gốc và tính xác thực của câu nói trên, nhưng sự tồn tại và lưu truyền dù trong giới hạn nào, ít nhiều cũng phản ánh một thái độ lên án PTG.
Rồi trong thơ văn, trong các công trình nghiên cứu, chúng ta luôn luôn bắt gặp những nhận xét và đánh giá rất khác nhau, khác nhau đến mâu thuẫn, trái ngược nhau về nhân vật PTG.
Năm 1962 - 1963, trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử bùng lên cuộc tranh luận về PTG. Tháng 10/1963, tạp chí đã công bố bài kết luận của GS Trần Huy Liệu dưới tiêu đề "Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh Giản". Quan điểm chung của bài kết luận là lên án PTG "Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại nguyện vọng và quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân dân", là phạm tội "dâng thành hiến đất cho giặc" và từ đó phủ nhận tất cả "tư đức" của ông như "đức tính liêm khiết", "lòng yêu nước", "thương dân"... vì "công đức đã bại hoại thì tư đức còn có gì đáng kể" (3).
Bài kết luận này cũng như những tham luận đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử lúc bấy giờ cho thấy, bên cạnh thái độ lên án PTG, cũng có những ý kiến muốn nhìn nhận ông một cách toàn diện hơn và phải ghi nhận những phẩm giá, nhân cách của ông một cách khách quan và thoả đáng hơn. Và ngay sau khi cuộc thảo luận kết thúc với kết luận lên án và phê phán nặng nề như vậy thì GS Ca Văn Thỉnh với tư cách là một người con của Bến Tre, của Nam Kỳ lục tỉnh tỏ thái độ băn khoăn và không đồng tình. Như vậy là cuộc thảo luận năm 1962 - 1963 tuy kết thúc, nhưng trong tranh luận và sau khi kết luận, vẫn tồn tại những quan niệm và ý kiến khác nhau. Hơn thế nữa, cuộc tranh luận lúc bấy giờ diễn ra trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh dân tộc đang phát triển gay gắt mà mục tiêu cao nhất của nhân dân cả nước là chống xâm lược, độc lập và thống nhất Tổ quốc. Không khí của cuộc đấu tranh dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của nhà sử học đối với đất nước không thể không ảnh hưởng đến xu hướng chung của cuộc tranh luận. Chúng ta nên ghi nhận kết quả của cuộc thảo luận năm 1962 - 1963 như một mốc đánh dấu nhận thức và thái độ của sử học đối với PTG trong bối cảnh lịch sử cụ thể lúc đó.
Sau năm 1975, nhất là trong công cuộc đổi mới gần đây, nhiều nhà khoa học thấy cần phải đánh giá lại PTG một cách khách quan và đầy đủ hơn. Nhân dân và cán bộ tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long quê hương của PTG càng mong mỏi và đòi hỏi các nhà khoa học và công luận làm sáng tỏ hơn thân thế và sự nghiệp của ông với tất cả những gì ông đã để lại cho lịch sử và trong lòng dân, những thành công và thất bại, mặt tích cực và hạn chế, những trăn trở và uẩn khúc của đời ông.
Đó chính là lý do sâu xa và gần gụi đưa đến cuộc hội thảo khoa học do Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre phối hợp với Trung tâm KHXH & NVQG và Hội KHLSVN tổ chức. Sự có mặt và tham gia tích cực của nhiều nhà khoa học ở địa phương và Trung ương, nhiều cán bộ lãnh đạo của hai tỉnh và sự theo dõi, chờ đợi của nhân dân quê hương PTG đủ cho thấy sự cần thiết và ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của cuộc hội thảo.

2
Tư liệu là cơ sở khoa học cần thiết để phục dựng lại một cách đáng tin cậy thân thế và sự nghiệp của PTG cùng những mối quan hệ phức tạp giữa ông với thời cuộc, với triều đình và quân Pháp lúc bấy giờ. Chỉ trên cơ sở những sự thật lịch sử được xác minh bằng tư liệu cụ thể, chúng ta mới có thể phân tích và nhận định một cách khoa học.
So với cuộc hội thảo năm 1962 - 1963 và những công trình nghiên cứu trước đây, chúng ta ý thức sâu hơn vai trò của tư liệu và đã cố mở rộng thêm các nguồn tư liệu. Ngoài chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện..., những thư tịch Hán Nôm, nhiều tác giả đã cố gắng khai thác thêm những sử liệu trong các tác phẩm của PTG, trong các di tích lịch sử và văn học dân gian của quê hương ông, trong các tài liệu lưu trữ của triều đình Nguyễn (Châu bản triều Nguyễn), của quân đội Pháp... Tôi đặc biệt quan tâm những tư liệu của quê hương Bến Tre như tấm bia mộ đơn sơ "Lương Khê Phan lão nông chi mộ", tấm minh sinh ghi lời Phan "Đại Nam hải nhai lão thư sinh tánh Phan chi cửu", những chuyện kể, những truyền thuyết dân gian nói lên chí hiếu học, cuộc sống thanh bạch, lòng liêm khiết, tinh thần yêu nước, thương dân của PTG (4) và qua đó, giúp chúng ta hiểu tấm lòng tôn kính, ngưỡng mộ của nhân dân đối với ông.
Rõ ràng chúng ta còn phải dày công mở rộng và khai thác sâu hơn nữa các nguồn tư liệu về PTG. Cho đến nay, ngay những tác phẩm của PTG được con ông thu thập lại trong hai bộ sách "Lương Khê thi thảo" in năm 1876, có 454 bài thơ) và "Lương Khê văn thảo" (in năm 1876, có 39 bài văn) (5) vẫn chưa được khai thác nhiều. Những tư liệu lưu trữ của triều Nguyễn và của Pháp cũng chỉ mới được tìm tòi, khai thác một phần.
Nhưng cùng với việc mở rộng nguồn tư liệu, chúng ta phải quan tâm đến việc giám định và xử lý tư liệu. Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng về phương pháp luận sử học mà trong hội thảo khoa học của chúng ta, một số tác giả đã nêu lên với sức thuyết phục cao.
Ngay câu nói "Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân" mà bao nhiêu tác giả đã sử dụng và dẫn ra như một minh chứng hùng hồn về thái độ lên án của nhân dân đối với PTG và triều đình Nguyễn, thì cho đến nay, nguồn gốc và xuất xứ vẫn chưa rõ. Phải chăng đó là câu đề cờ của Trương Định khi dựng cờ khởi nghĩa vừa chống Pháp xâm lược vừa chống triều đình đầu hàng, nhưng như vậy tại sao không thấy ghi chép lại trong những tác phẩm viết về Trương Định của những tác giả đương thời như Nguyễn Thông? Phải chăng do nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra năm 1907, chỉ là một giả thiết hay suy đoán chưa có căn cứ? Dĩ nhiên sự ra đời và lưu truyền câu nói đó dù trong phạm vi nào, đã phản ánh một thái độ phê phán PTG của một số người nhất định. Nhưng nếu là câu nói của Trương Định thì rõ ràng ý nghĩa của tư liệu khác hẳn. Vì thế, tìm hiểu nguồn gốc và xuất xứ của câu nói vẫn cần đặt ra.
Sử dụng tư liệu của chính sử triều Nguyễn viết về PTG, nhất là quan hệ giữa ông với vua Tự Đức và triều Nguyễn trong trách nhiệm để mất 6 tỉnh Nam Kỳ cũng cần phân tích, giám định. Đại Nam thực lục ghi chép việc ký hoà ước Nhâm Tuất 1862 như là trái ý Tự Đức và bị nhà vua lên án: "Thương thay con đỏ của lịch triều, nào có tội gì? Rất là đau lòng. Hai viên này (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp) không những là người có tội của bản triều mà là người có tội của muôn nghìn đời vậy" (6), "Nghị hoà là thất cơ, lỗi ấy do hai viên kia (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp)" (7). Nhưng cũng chính bộ sử này cho biết rõ, lúc đó Tự Đức đã xác lập đường lối "chủ hoà" và khi cử PTG làm Chánh sứ toàn quyền đại thần "nghị về việc hoà" thì vua tôi đã bàn định kỹ các khả năng kể cả việc cắt đất và bồi tiền. Nếu PTG tự tiện ký hoà ước trái ý vua thì sao Tự Đức không bắt tội, mà lại cử ông làm Tổng đốc Vĩnh Long và tiếp tục giao phó cho ông nhiều trọng trách giao thiệp với Pháp và năm 1863 chính Tự Đức đã phê chuẩn hoà ước, làm lễ đại triều ở điện Thái Hoà tiếp sứ thần hai nước Pháp, Y Pha Nho để trao đổi văn bản hoà ước. Đó là những lắt léo trong chính sử triều Nguyễn nhằm biện hộ cho Tự Đức và đổi tội cho PTG mà khi sử dụng chúng ta cần giám định cẩn thận.
Sử dụng tư liệu của Pháp, nhất là những tư liệu do những chỉ huy quân viễn chinh Pháp và những viên quan cai trị Pháp viết, chúng ta càng phân tích, đối chiếu và giám định kỹ, không những vì lối trình bày khuếch đại "chiến công" của họ, mà có khi còn vì những mưu đồ chính trị thâm hiểm. PTG là một người có uy tín và ảnh hưởng lớn trong nhân dân thì càng dễ trở thành đối tượng lợi dụng của họ và vì mục đích đó, họ không ngần ngại gì bóp méo sự thật hay bịa đặt ra các văn bản giả.
Trong cuộc hội thảo khoa học của chúng ta, có tác giả nêu lên một cách có căn cứ, nghi vấn về bài hịch kêu gọi đầu hàng của PTG với lời "ta đã biên thư cho tất cả các quan và tất cả các vị chỉ huy quân sự là phải bẻ gãy giáo mác và trao lại thành luỹ mà không giao chiến" (7), và thư của PTG gửi cho La Grandière trước lúc tự tử (8). Đó là những tư liệu mà nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng, nhưng chưa ai đặt vấn đề thẩm định tính xác thực và độ tin cậy của nó.
Việc quân Pháp hạ thành Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên tháng 6/1867 cũng như có chỗ khác nhau giữa một số tư liệu của Pháp và của ta. Quan chức Pháp như La Grandière, Paulin, ẸLuro... miêu tả như PTG đã đầu hàng, trao thành Vĩnh Long cho Pháp, rồi viết thư bắt các thành An Giang, Hà Tiên cũng phải nộp thành cho Pháp (9). Nhưng tư liệu của ta như Đại Nam thực lục và nhất là Châu bản triều Nguyễn (10) lại cho thấy một thủ đoạn của quân Pháp, lợi dụng thái độ chủ hoà của PTG và những sơ hở của quân ta, để bất ngờ chiếm thành. Chúng đem chiến thuyền đến áp sát thành Vĩnh Long, đưa thư bắt nhường ba tỉnh miền Tây, buộc PTG xuống tàu thương nghị rồi khi Phan trở lại, chúng kéo theo và bất ngờ đột nhập chiếm thành Vĩnh Long.
Việc chiếm thành An Giang và Hà Tiên cũng diễn ra gần như thế. Đó là lý do chúng chiếm được ba thành quá dễ dàng và không tốn một viên đạn. Tất nhiên để mất ba thành là trách nhiệm không thể thoái thác của Kinh lược sứ đại thần PTG và các tướng giữ thành, nhưng dâng thành đầu hàng giặc hay bị lợi dụng và lừa dối để mất thành lại là hai việc khác nhau liên quan đến phẩm giá con người. Những tư liệu khác nhau như vậy đòi hỏi phải có sự phân tích, đối chiếu và giám định rõ ràng trước khi sử dụng.
Giám định tư liệu là yêu cầu mặc nhiên của công tác sử liệu học, nhưng hội thảo khoa học của chúng ta lần đầu tiên đưa ra yêu cầu đó với những nghi vấn và đề xuất cụ thể về một số tư liệu liên quan đến nghiên cứu con người và sự nghiệp PTG vào những năm tháng thử thách nặng nề nhất trong cuộc đời ông.

3
Đánh giá PTG trước đây người ta thường tập trung vào 5 năm cuối đời ông từ khi ký hoà ước 1862 nhượng ba tỉnh miền Đông đến khi để mất tiếp 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867. Đó là giai đoạn cuối đời mà ông phải gánh vác những trọng trách nặng nề trong những mâu thuẫn của đất nước và của bản thân phát triển đến cực điểm mà ông không vượt qua được và tự kết thúc bằng cái chết. Trong giai đoạn này tập trung nhiều vấn đề phức tạp cần làm sáng rõ nhất. Nhưng khi xem xét và đánh giá một con người, chúng ta cần nhìn nhận một cách toàn diện về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của con người đó.
Kể từ khi sinh ra năm 1796 đến khi từ trần năm 1867, cuộc đời và sự nghiệp của PTG nên phân định làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thiếu thời lo ăn học từ 1796 đến khi thi đỗ Tiến sĩ năm 1826.
- Giai đoạn làm quan phụng sự ba triều vua Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, từ năm 1826 đến năm 1862.
- Giai đoạn cuối đời đầy thách thức và bế tắc từ 1862 đến 1867.
Hội thảo của chúng ta nhất trí cho rằng, trước khi tập trung làm sáng rõ những vấn đề giai đoạn cuối đời, cần xem xét và đánh giá con người và sự nghiệp của PTG trong hai giai đoạn đầu trước năm 1862.
Trong buổi thiếu thời, nét nổi bật của con người PTG là hiếu thảo, chăm học, sống thanh bạch cần kiệm. Xuất thân trong một gia đình nghèo khổ, tiên tổ từ Bình Định di cư vào đồng bằng sông Cửu Long và trên quê hương mới cũng qua ba lần thay đổi mới định cư ở thôn Tân Thạnh, huyện Tân An, dinh Long Hồ (sau là huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Cha làm Thủ hạp là một viên chức nhỏ, bị tội oan phải tù 3 năm ở Vĩnh Long, PTG mồ côi mẹ từ lúc lên 7 tuổi, được mẹ kế và nhiều người giúp đỡ cho ăn học thành tài. Năm _ấ_t Dậu 1825, ông thi Hương trường Gia Định, đỗ Cử nhân lúc 30 tuổi (31 tuổi ta). Năm sau - năm Bính Tuất 1826 - ông thi hội, đỗ Tiến sĩ (Đệ tam Giáp đồng Tiến sĩ xuất thân) năm 31 tuổi (32 tuổi ta). Đó là thành đạt lớn mở ra trong bước ngoặt cuộc đời của PTG. Ông trở thành vị Tiến sĩ đầu tiên, vị Tiến sĩ khai khoa của Nam Kỳ lục tỉnh.
Quốc triều hương khoa lục chép: "Ông là người đỗ đại khoa đầu tiên của Nam Kỳ. ông là người có học vấn và đức hạnh đứng đầu đất Nam Trung" (11).
Quốc triều đăng khoa lục nhận xét: "Ông là người đỗ đại khoa trước nhất của Nam Kỳ. Lực học tinh thuần, tính hạnh chính trực" (12).
Với lòng hiếu thảo, hiếu học, tinh thần siêng năng, cần mẫn và trí thông minh, PTG đã vượt qua những khó khăn của cuộc sống, vươn lên vị trí Tiến sĩ khai khoa của đất Đồng Nai - Gia Định, của Nam Kỳ lục tỉnh. Những phẩm giá con người và vị trí thành đạt đó đã làm cho nhân dân Nam Kỳ quý mến và ngưỡng mộ, tự hào về người con của quê hương, biểu thị tinh thần hiếu học của nhân dân ta. Đó cũng là những phẩm chất tốt đẹp thời tuổi trẻ của PTG mà chúng ta cần trân trọng và còn nguyên giá trị giáo dục đối với thế hệ trẻ hôm nay cũng như ngày mai.
Với học vị Tiến sĩ, PTG đi vào con đường hoạn lộ, làm quan trải qua ba triều vua từ Minh Mạng qua Thiệu Trị đến Tự Đức. Từ chức Hàn lâm viện Biên tu thăng Lang trung Bộ Hình năm 1826, ông tiếp tục giữ nhiều chức vụ ở trong triều và nhiều địa phương.
Dưới triều Minh Mạng (1820 - 1840), ông giữ chức Quyền nhiếp trấn Nghệ An (1828), Thự phủ doãn phủ Thừa Thiên (1829), thăng Thị lang bộ Lễ (1829), thăng Hiệp trấn Ninh Bình (1829), đổi về Quảng Nam (1831) dẹp cuộc nổi dậy ở Chiên Đàn bị thua và bị cách chức, rồi được khởi phục làm Hành tẩu Nội các, thăng Thị lang bộ Hộ, Thự phủ doãn Thừa Thiên, thăng Hồng lô tự khanh, sung Phó sứ sang Thanh rồi thăng Đại lý tự khanh, kiêm công việc bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần (1832), Khâm phái đi Trấn Tây, đổi làm Bố chính Quảng Nam (1835), vì can ngăn vua, bị xúc xiểm và bị giáng là thuộc viên lục phẩm (1836), rồi được làm Thừa chỉ Nội các, sung Lang trung bộ Hộ, rồi Thự thị lang sung Cơ mật viện (1836), được cử đi duyệt binh ở Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, lúc về chuyên biện việc Bộ Hộ vì quên không đóng dấu vào chương sớ bị giáng làm Lang trung, biện lý việc Bộ, phái đi khai mỏ Chiên Đàn, mỏ bạc Thái Nguyên (1838), được triệu về Kinh làm Thông chính sứ phó ty, rồi Thị lang bộ Hộ, vì can ngăn vua bị giáng làm Thông chính phó sứ (1840), sung làm Phó chủ khảo trường thi Thừa Thiên vì sơ suất bị giáng một cấp (1840).
Dưới triều vua Thiệu Trị (1841 - 1847), ông được thăng Tham tri (1841), rồi thăng Thượng thư bộ Hình sung Cơ mật viện đại thần (1847).
Dưới triều vua Tự Đức (1848 - 1883), cho đến trước năm 1862, ông được đổi sang Thượng thư bộ Lại (1848), sung làm Giảng quan toà Kinh diên, cử làm Kinh lược đại sứ ở Tả Kỳ, lĩnh Tổng đốc Bình Phú, kiêm coi đạo Thuận Thành (1849), làm Kinh lược phó sứ Nam Kỳ lĩnh Tuần phủ Gia Định, kiêm coi tỉnh Biên Hoà và các đạo Long Tường, An Hà (1851), được triệu về kinh thăng Thự hiệp biện đại học sĩ, lĩnh Thượng thư bộ Hình, sung Cơ mật, Kinh diên (1853), làm Chánh tổng tài Quốc sử quán (1856) (13).
Qua hành trạng tóm lược trên, cuộc đời làm quan của PTG có những bước thăng trầm, có lúc bị cách chức, bị cách chức, nhưng trong bất cứ cương vị nào ông cũng luôn luôn trung thành, mẫn cán, lo làm tròn sứ mạng phò vua, giúp nước, an dân theo quan niệm của Nho giáo. Ngoài tài năng, phẩm giá đáng quý ở PTG là tấm lòng yêu nước thương dân, tính ngay thẳng cương trực và cuộc sống cần kiệm thanh bạch. Làm quan có lúc đến nhất phẩm triều đình, nhưng quyền lực và danh vọng không làm ông bị tha hoá như nhiều quan chức khác, trước sau ông vẫn giữ nhân cách cao đẹp của mình.
Với tính cương trực và ý thức trách nhiệm trước nước, trước dân, PTG đã dám can ngăn vua dù bị mang hoạ vào thân. Năm 1836, ông đã can ngăn vua Minh Mạng đi tuần du Quảng Nam vì năm đó mất mùa lại đang lúc cày cấy, "hãy xin tạm đình cho dân được chuyên việc đồng ruộng" (14). Năm 1840, Vương Hữu Quang có tội, đình thần dựa theo ý vua, có người xin xử tội chém, có người xin xử tội lưu, ông dám xin nhà vua chỉ xử giáng 2 cấp lưu (15).
Những năm 1843, 1849, 1852, 1853, 1859, PTG dâng sớ lên vua, nói lên thực trạng của đất nước về kinh tế, xã hội và đề xuất những chính sách nhằm "dựa vào pháp luật mà cai trị", "quan tốt mà dân yên", "chỉnh đốn thói quen của sĩ phu", ""chữa hồi bệnh đau khổ của nhân dân", "nuôi dân chăm cày cấy", "nuôi quân trù phương lược", "binh giỏi lương đủ như nguồn nước chảy mãi không hết"... (16). Năm 1838, được cử đi khai mỏ vàng Chiên Đàn ở Quảng Nam rồi mỏ bạ Tống Tinh ở Thái Nguyên, PTG đem thực trạng thua lỗ tâu trình lên để nhà vua bãi bỏ việc khai mỏ vàng Chiên Đàn và chuyển mỏ bạc Tống Tinh cho thương nhân lĩnh trưng (17).
Tự Đức đã khen PTG là người "liêm bình chính cán" (1852), là "thanh liêm, cẩn thận" (1856). Ngoài các hoạt động chính trị, PTG còn có những cống hiến về mặt văn hoá. Năm 1856, PTG được cử làm Tổng tài phụ trách công việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Trong 3 năm (1856 - 1859), ông cùng nhóm biên soạn đã hoàn thành công việc biên tập, nhưng sau đó còn phải "duyệt nghĩ" (1871), "duyệt kiểm" (1872), "phúc kiểm" (1876), "duyệt đính" (1878), "kiểm duyệt" (1884), đến năm 1884 mới được khắc in và ban hành. Đó là bộ quốc sử đồ sộ, viết theo lối "cương mục", chép lịch sử dân tộc từ đời Hùng Vương cho đến năm Chiêu Thống 3 (1789), gồm cả thảy 52 quyển. Bộ sử biên soạn trên quan điểm Nho giáo kết hợp với tinh thần dân tộc, với những "lời chua" nhằm chú giải tên đất, tên người và giám định một số sự kiện, niên đại trên cơ sở khảo chứng công phu, và những "Lời phê" của Tự Đức. Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng với Đại Việt sử ký toàn thư (chép sử từ nguồn gốc đến năm 1675) là hai bộ quốc sử lớn nhất được khắc in toàn bộ trong thời đại phong kiến Việt Nam. Về phương diện này, chúng ta cần ghi nhận cống hiến to lớn của PTG và với bộ quốc sử này, ông là một nhà sử học lớn (18).
PTG còn là nhà thơ, nhà văn mà những tác phẩm còn lại đã được các con ông thu thập và khắc in thành hai bộ "Lương Khê thi thảo" và "Lương Khê văn thảo". Tuy chưa được dịch và nghiên cứu đầy đủ, nhưng một vài tham luận trong hội thảo khoa học của chúng ta cũng đã cho thấy rõ thêm tâm hồn và tài năng cũng như tư tưởng và tình cảm thắm thiết của ông đối với quê hương xứ sở, đối với dân với nước được gởi gắm trong thơ văn của ông.
Ông cùng Nguyễn Thông có công xây Văn Thánh Miếu và lập Văn Xương Các ở Vĩnh Long sau khi mất 3 tỉnh miền Đông để qui tụ các sĩ phu về đây. PTG là một trong những nhà thơ, nhà văn lớn của Nam Kỳ. Như vậy là cho đến trước năm 1862, PTG đã có nhiều hoạt động chính trị và văn hoá. Tất cả các tham luận và thảo luận trong hội thảo đều gần như nhất trí biểu thị sự trân trọng và đánh giá cao những cống hiến tích cực của ông trong thời gian này, nhất là nhân cách và phẩm giá cao quý của ông.

4
Năm năm cuối đời (1862 - 1867) là giai đoạn gian truân, đầy uẩn khúc của PTG và cũng là giai đoạn tập trung nhiều vấn đề tranh luận nhất của cuộc hội thảo. Những vấn đề chính được đặt ra là trách nhiệm của PTG trong việc ký hoà ước 1862 nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp, trong việc để mất 3 tỉnh miền Tây năm 1867 và cái chết của ông, mối quan hệ trách nhiệm giữa PTG với vua Tự Đức và triều Nguyễn.
Về tư liệu và một số sự kiện liên quan cũng được nêu lên để cố gắng tìm ra sự thật lịch sử bấy lâu nay bị che phủ trong màn sương mù của những tài liệu ghi chép lắt léo một cách dụng ý, thậm chí cả sự bịa đặt và bóp méo mà chưa hề được thẩm định một cách khoa học (đã trình bày trong phần 2). Hội thảo lưu ý các nhà khoa học nên tiếp tục dày công tra cứu, giám định tư liệu để sớm đưa ra ánh sáng những sự việc bị che đậy nhằm trả lại cho lịch sử những sự thật lịch sử và có đủ cơ sở khách quan hơn trong việc nhìn nhận và đánh giá PTG một cách công minh.
Cho đến lúc này, trong chúng ta vẫn còn những khía cạnh bất đồng hay khác biệt, và ai cũng mong muốn được tiếp tục nghiên cứu và trao đổi. Tuy nhiên, chúng ta cũng rất vui mừng nhận thấy qua hai ngày hội thảo, chúng ta đã làm sáng tỏ được những vấn đề đặt ra và đi đến sự nhất trí về cơ bản trong nhận thức và đánh giá PTG vào 5 năm cuối đời ông.
Hoà ước năm Nhâm Tuất 1862 gồm 12 điều khoản, trong đó điều cơ bản là triều Nguyễn nhượng hẳn cho Pháp 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường cùng đảo Poulo Condor (Côn Đảo) và chịu bồi thường chiến phí 4 triệu đồng bạc trả trong 10 năm, người Pháp và Y Pha Nho được quyền tự do truyền đạo và buôn bán. Rõ ràng đây là một hiệp ước xâm phạm nặng nề đến lãnh thổ của đất nước và chủ quyền quốc gia, đi ngược lại quyền lợi dân tộc và truyền thống dân tộc. Ngay lúc bấy giờ, nhân dân Nam Kỳ và nhân dân cả nước đã tỏ sự bất bình, chống đối lại hoà ước đó và ngày nay cũng không một ai có thể biện hộ được. Nhưng vấn đề là phải chăng PTG và Lâm Duy Thiếp, những người ký hiệp ước, phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc nhượng đất đó?
Tự Đức muốn đổ hết trách nhiệm và tội lỗi cho PTG, nhưng tư liệu lấy ngay trong chính sử triều Nguyễn cũng đủ cho chúng ta khẳng định rằng PTG là người thừa hành và thực hiện một chủ trương đã được hoạch định của Tự Đức và triều đình, đồng thời PTG cũng là người đồng tình với chủ trương đó.
Trách nhiệm của PTG ở đây là trách nhiệm của người thừa hành và tất nhiên với cương vị Chánh sứ toàn quyền đại thần, ông cũng có phần trách nhiệm trong việc thương thuyết và thực thi một chủ trương sai lầm của triều đình.
Sau khi hoà ước được ký kết, đình thần cũng chỉ có thể nhận xét và tâu lên vua :"về khoản cắt đất bồi ngân, hai viên ấy đã làm, phần nhiều chưa hợp. Nhưng điều ước mới định, nếu vội sửa đổi ngay, sợ họ còn tức khí", và đề nghị "công việc Nam Kỳ nên chuyển uỷ cho Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp đứng làm" (19).
Trong việc để mất 3 tỉnh miền Tây năm 1867, trách nhiệm của PTG về nguyên tắc có phần nặng nề hơn vì với cương vị Vĩnh Long - An Giang - Hà Tiên kinh lược sứ, ông có trách nhiệm giữ đất và là người được toàn quyền thay mặt nhà vua xử lý mọi việc trong vùng. Nhưng trên thực tế, chủ trương "cầu hoà" và Hoà ước 1862 mà Tự Đức đã phê chuẩn năm 1863, đã đặt PTG và nhiệm vụ giữ đất 3 tỉnh miền Tây vào tình thế cực kỳ khó khăn đến bế tắc.
Về vị trí địa lý, 3 tỉnh hoàn toàn bị cô lập, bị tách ra khỏi địa bàn cả nước bởi 3 tỉnh miền Đông đã ở trong tay quân Pháp.
Hơn thế nữa, trung thành theo Hoà ước 1862 và nhất là sợ người Pháp "nghi ngại", Tự Đức "đem sao lục 12 điều ước cũ, đưa đi treo dán để hiểu bảo cho sĩ dân đều biết, khiến đều yên ở làm ăn", rồi còn "xuống dụ cho cho tỉnh thần ba tỉnh sức khắp các hạt biết, mà các quan phủ huyện một khi trông thấy, tức thì bắt ngay đem giải, nhà dân có ai chứa chấp cũng bắt tội như kẻ phạm tội" (20). Tự Đức nhiều lần ra lệnh "hưu binh", "giải giáp", sai PTG dụ Trương Định, giải tán lực lượng nghĩa binh chống Pháp.
Như vậy là Tự Đức và triều đình đã tự mình tước bỏ mọi khả năng giữ đất 3 tỉnh miền Tây cũng như giành lại 3 tỉnh miền Đông.
Năm 1866, quân Pháp đe doạ chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, Tự Đức và triều đình một mặt "khiến 3 tỉnh ấy một lòng chống giữ", mặt khác lái thấy "thế đất cheo leo, muốn giữ cho không lấn cũng khó" và "xin tư cho quan Kinh lược không đánh nhau với quân Pháp, tự phải rút lui" (21). Những chủ trương và giải pháp của triều đình như vậy ắt dẫn đến hậu quả tất nhiên là không thể nào giữ được 3 tỉnh miền Tây.
Tư liệu lịch sử của ta cho thấy PTG không phải đầu hàng, nộp thành cho giặc như sự miêu tả của một số tư liệu Pháp, nhưng việc mất 3 tỉnh miền Tây cũng là hậu quả tai hại của những chủ trương sai lầm của Tự Đức và triều Nguyễn, trong đó dĩ nhiên có trách nhiệm bản thân PTG.
Cuối cùng cái chết của PTG có thể coi là sự kết thúc những năm cuối đời đầy bi kịch của ông trong bi kịch chung của đất nước dưới triều Nguyễn.
PTG là người yêu nước, thương dân, nhưng cũng là một tín đồ của Nho giáo với lòng trung quân sâu nặng. Vào thế kỷ XIX, Nho giáo vẫn còn giữ một số ảnh hưởng tích cực trên một số phương diện nào đó về mặt đạo đức và cách xử thế, nhưng hệ tư tưởng Nho giáo thì tỏ ra quá bảo thủ và lỗi thời, không còn khả năng giúp con người nhận thức, lý giải và giải quyết những vấn đề mới của đất nước, của dân tộc trong bối cảnh phát triển mới của thời đại.
Trước hoạ xâm lược của thực dân Pháp đến từ một nước tư bản phương Tây, từ một nền văn minh công nghiệp với nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân, với lối đánh chưa từng có trong binh thư phương Đông, vua tôi triều Nguyễn tỏ ra rất bị động, lúng túng. Trong triều thì người "chủ chiến", người thì "chủ hoà", người thì "lo chống giữ lâu dài", người thì "chẳng chiến cũng chẳng hoà" và không ít người chẳng đưa ra được chính kiến gì. Vua Tự Đức đi từ chống đỡ yếu ớt và đến thất bại, đến "chủ hoà" thương lượng và nhượng bộ dần đất đai và chủ quyền cho giặc.
Đây là lần đầu tiên dân tộc ta phải đương đầu với một đối tượng xâm lược mới, trong một bối cảnh lịch sử mới mà những kinh nghiệm cổ truyền cần được vận dụng trong một phương thức đấu tranh mới.
"Chủ chiến" nhưng nếu chỉ biết đánh, không biết dựa vào dân để đánh lâu dài và kết hợp lo canh tân để tăng cường tiềm lực đất nước thì cũng khó giữ được nước.
"Chủ hoà" mà chỉ lo thương thuyết, cầu xin giặc, không dám dựa vào dân, không lo canh tân đất nước thì chỉ dẫn đến thất bại và đầu hàng. Con đường "chủ hoà" theo cách của Tự Đức và triều Nguyễn là con đường thất bại chủ nghĩa, đã dẫn đến hậu quả nhượng ba tỉnh miền Đông rồi để mất 3 tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh, và sau đó tiếp tục đưa đất nước đến bại vong.
Với hệ tư tưởng Nho giáo bảo thủ, triều Nguyễn tự giam mình trong những giáo lý đã chết cứng của Thánh hiền, quay lưng lại mọi trào lưu tiến hoá trên thế giới, khước từ mọi đề nghị canh tân đất nước của những trí thức yêu nước cấp tiến.
Nỗi đau lòng và tính bi kịch của PTG là một mặt ông cùng "chủ hoà" với triều đình, rất mực trung thành với nhà vua, mặt khác ông lại nặng lòng yêu nước thương dân. Mâu thuẫn đó đã đẩy ông đến chỗ bế tắc và chỉ còn biết lấy cái chết để kết thúc cuộc đời và bày tỏ nỗi lòng của mình. Có lẽ tác giả Đại Nam chính biên liệt truyện phần nào đã thấu hiểu lòng ông khi nhận xét :" Thanh Giản là người ngay thực, giữ lòng liêm khiết, làm quan cần mẫn, thận trọng, gặp việc dám nói. Trải thờ 3 triều, vẫn được yêu quý. Đến khi mang cờ tiết đi Nam, thế không làm sao được, biết tội tự uống thuốc độc chết. Thực là ở vào chỗ người ta khó xử. Xem tờ sớ để lại thì lòng trung ái chứa chan ở ngoài lời nói" (22). Đúng như nhiều tác giả đã nhìn nhận, cái chết của PTG là một bi kịch.
Trong hội thảo, chúng ta đã chỉ ra trách nhiệm của PTG trong trách nhiệm chủ yếu thuộc về Tự Đức và triều Nguyễn, nhưng tất cả chúng ta đều nhất trí không nên và không thể gán cho ông cái tội "bán nước" hay "phản bội tổ quốc". Đó là sự qui kết khá nặng nề, không có căn cứ, vừa không đúng với hành động và động cơ của ông, vừa trái với tấm lòng ngưỡng mộ và kính mến mà xưa nay nhân dân quê hương vẫn giành cho ông. Với những kết quả như trên, chúng ta có thể kết luận cuộc hội thảo khoa học của chúng ta đã thành công tốt đẹp. Thành công tốt đẹp không có nghĩa là chúng ta đã giải quyết xong mọi vấn đề liên quan đến PTG và nhất trí với nhau về mọi khía cạnh trong nhìn nhận và đánh giá PTG. Sử học là một khoa học mà nhận thức về đối tượng của nó là một quá trình tiến dần đến chân lý, nhưng không thể một lúc nắm bắt toàn bộ chân lý. Cuộc hội thảo của chúng ta đánh dấu một bước mới trong nhận thức và đánh giá về PTG, nhưng đồng thời cũng mở ra nhiều vấn đề mới cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận.
Qua cuộc hội thảo này, chúng ta thấy rõ những mặt hạn chế và bế tắc của PTG, nhưng đồng thời chúng ta cũng trân trọng ghi nhận những cống hiến tích cực của ông trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp, đánh giá cao nhân cách và phẩm chất cao quý của ông.
Chúng tôi hy vọng kết quả của cuộc hội thảo sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn cuộc đời và sự nghiệp một con người mà từ khi nhắm mắt cho đến nay luôn luôn đứng trước những sự đánh giá mâu thuẫn gay gắt trong khen và chê, trong bình luận công và tội. Chúng ta còn tiếp tục nghiên cứu và thảo luận, nhưng những gì đạt được trong hội thảo nói lên lòng mong mỏi của chúng ta muốn trả về cho PTG những giá trị và những hạn chế đích thực của ông, muốn có sự nhìn nhận khách quan, công minh và thoả đáng. Những kết quả và thái độ của hội thảo chắc sẽ giải toả phần nào những mặc cảm bấy lâu đè nặng lên tâm tư của nhiều người, kể cả con cháu PTG và con cháu Trương Định, những người "chủ chiến" đã kiên quyết chiến đấu chống Pháp xâm lược và đã hy sinh vì tổ quốc, vì nhân dân.
Kết quả cuộc hội thảo cũng là cơ sở khoa học để Tỉnh uỷ và Uỷ ban Nhân dân hai tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre tham khảo trong biên soạn các sách về danh nhân quê hương, về giáo dục truyền thống, về xử lý những di tích liên quan đến PTG. Chúng tôi trân trọng đề nghị bảo tồn và tôn tạo toàn bộ các di tích về PTG, nhất là ngôi mộ ở Bến Tre, Văn Thánh Miếu và Văn Xương Các ở Vĩnh Long nhằm ghi nhớ và phát huy những phẩm giá, nhân cách cao quý của một người trí thức nặng lòng yêu nước thương dân nhưng cuối đời đã lâm vào cảnh bế tắc, bi kịch trong một bối cảnh gian truân và đau thương của đất nước.


----------------------

Chú Thích:
1. Đại Nam thực lục, t.32, Hà nội 1974, tr.269.
2. Đại Nam thực lục, t.37, Hà nội 1997, tr.223, 225.
3. Trần Huy Liệu: Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh Giản. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 55, 10/1963, tr.18-19.
4. Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Bến Tre: Quê hương Bến Tre đối với nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. Tham luận số 2 trong kỷ yếu.
5. Phan Thanh Giản: Lương Khê thi thảo. Viện Hán Nôm, VHV.151, Ạ2125. Phan Thanh Giản: Lương Khê văn thảo. Viện Hán Nôm, VHV.856, VHV.857, VHV.91, Ạ2125.
6. Đại Nam thực lục, t.29, Hà nội 1974, tr.302.
7. Paul Brando: Recits et Nouvelles. Paris 1897, dẫn theo Trương Bá Cần: Phan Thanh Giản với việc mất 6 tỉnh Nam Bộ vào tay thực dân Pháp. Tham luận số 7 trong kỷ yếu.
8. Octave Fore: Les régions inconnues: chasse, pêche, aventure et découverts dans l'Extrême Orien. Paris 1870, dẫn theo Trương Bá Cần, tham luận số 7, đd.
9. Xem Trương Bá Cần, bđd.
10. Châu bản triều Nguyễn hiện nay lưu giữ tại Cục lưu trữ nhà nước và theo kết quả kiểm tra mới nhất có 734 tập, trong đó triều Tự Đức có 386 tập. Đây là một nguồn tư liệu rất quý, nhưng chưa được khai thác bao nhiêu không những về Phan Thanh Giản, mà về nghiên cứu lịch sử Việt Nam đời Nguyễn nói chung.
11. Cao Xuân Dục: Quốc triều hương khoa lục, TPHCM 1993, tr.150.
12. Cao Xuân Dục: Quốc triều khoa lục. Sài Gòn 1962, tr.31.
13. Đại Nam chính biên liệt truyện, t.4. Huế 1993, tr.37-42.
14. Đại Nam thực lục, t.4, sđd, tr.38
15. Đại Nam thực lục, t.22, Hà nội 1969, tr.88.
16. Đại Nam chính biên liệt truyện, t.4, sđd, tr.40-42.
17. Đại Nam thực lục, t.21, Hà nội 1969, tr.57, 212.
18. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, dịch và xuất bản từ 1957 đến 1960, gồm20 tập, 2037 trang.
19. Đại Nam thực lục, t.29, Hà nội 1974, tr.305, 309.
20. Đại Nam thực lục, t.30, Hà nội 1974, tr.162, 163.
21. Đại Nam thực lục, t.31, Hà nội 1974, tr.66-65.
22. Đại Nam chính biên liệt truyện, t.4, sđd, tr.46.

========








Phan Thanh Tâm: Nhận định bài tổng kết về Phan Thanh Giản của “Người Anh Cả”* giới sử học Hà Nội




Nước ta tuy có lúc thịnh, lúc suy
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô Ðại Cáo)

Gió O vừa nhận được tài liệu đặc biệt của ký giả Phan Thanh Tâm, hậu duệ đời thứ năm của nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. Trong thư ký giả PTT nói muốn chia sẻ cùng độc giả gio-o sau khi ông đọc bài CUỘC TẤN CÔNG QUÂN SỰ ĐẦU TIÊN CỦA PHÁP VÀO VIỆT NAM của Henry McAleavy (Ngô Bắc dịch) đăng trên gio-o tuần vừa qua. Chúng tôi cám ơn ký giả Phan Thanh Tâm và trân trọng giới thiệu bài viết với bạn đọc

Bài tổng kết “Chúng Ta Ðã Nhất Trí Về Việc Nhận Ðịnh Phan-Thanh-Giản” của ông Trần Huy Liệu, “Người Anh Cả”* giới sử học ở Hà NộI, viết từ tháng 8/1963 tự nó không tạo ra vấn đề hay gây ảnh hưởng gì cả dù rằng không hẳn mọi người đã nhất trí như tựa đề. Bài báo chỉ đâm ra dễ sợ, gây nhiều bất mản sâu đậm khi nó theo đoàn quân chiến thắng tiến vào thủ đô Saigon năm 1975.

Lần đầu tiên trong lịch sử báo chí thế giới, bài của một tác giả, qua đời năm 1969, thão luận về một nhân vật lịch sử, trở thành một án lệnh. “Nhà cách mạng sử học” họ Trần dựa vào ý thức hệ, đã tước bỏ mọi đức tính, sự nghiệp của cụ Phan khi cáo giác nhân vật này đã “theo giặc, chống lại cách mạng, phản lại quyền lợi tối cao của tổ quốc”.

Với bản án như vậy thì chỉ có tử hình. Ðúng thế. Dù cụ Phan đã quyên sinh từ hơn một thế kỷ trước năm 1867, tháng 5/1975, tượng “Tội Nhân Của Lịch Sử” ở trường Phan Thanh Giản Cần Thơ đã bị cảnh vệ mắng nhiếc cụ là “tên bán nước, tên có tội với nhân dân, tên tự tử vì hèn nhát…” rồi dùng búa đập cho đến khi “chiếc đầu gãy lìa khỏi cổ”, trước sự chúng kiến của một số người tập trung để chuẩn bị đi học tập cải tạo trong đó có nhà văn Trần Hoài Thư.

. Theo Giáo sư Văn Tạo, hai giáo sư Nguyễn Công Bình và Nguyễn Ðổng Chi do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội ở Hà nội trong thòi gian đầu của cuộc “giải phóng”, đã được cử vào để đóng góp vào việc hạ bệ uy tín, ảnh hưởng của cụ Phan như đổi tên đường Phan Thanh Giản ở Saigon thành đường Ðiện Biên Phủ, đổi tên trường học; xóa bỏ hay hạn chế bớt việc duy trì và tu tạo những di tích lịch sử về cụ ở Vĩnh Long, Ðồng Tháp, Cần thơ.(1)

Phan, Lâm Mãi Quốc; Triều Ðình Khi Dân

Bài báo còn viết gì? Ông Trần Huy Liệu, người Nam Ðịnh (1901-1969), từng làm Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền và Cổ Ðộng, trong bài nói trên đã vin vào “dư luận nhân dân đương thời biểu hiện trong tám chữ đề cờ của dân quân Tân An, Gò Công mà thủ lãnh là Trương Ðịnh” để cáo giác cụ Phan là đã hàng giặc, dâng nước cho giặc. Ông cho rằng, cụ Phan “công đức đã bại hoại thì tứ đức còn có gì đáng kể”.

Bài viết của “nhà sử học cách mạng” Trần Huy Liệu, nguyên Viện Trưởng Viện Sử Hoc, đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 55 (10/1963), do ông làm Chủ Nhiệm và Tồng Biên Tập xuất bản ở Hà Nội, còn nói cái chết của Cụ Phan Thanh Giản là theo “đạo dữ, là bất nhân, là phản bội”. Ông tố cáo cụ Phan, đã “dâng toàn bộ lục tỉnh Nam Kì cho giặc”.

Ông Vũ Ngọc Khánh, một người trong giới nghiên cứu có dịp bàn về PhanThanh Giản, một Tiến Sĩ trí thức Nam kì có đầu óc canh tân, cầu hòa, uyển chuyển, cho biết lúc bấy giờ năm 1963, chính sách chung là không thể chấp nhận khuynh hướng đầu hàng, khoan dung; nên cái nhìn về Phan Thanh Giản trở nên khắc nghiệt, vì phải theo quan điểm lập trường nhất định (2). Quan điểm lập trường nhất định đó là gì?

Ban Chấp hành Trung ương đảng khoá III đã họp 25 lần từ tháng 5 đến tháng 12/60 để quyết định các vấn đề quan trọng của đảng CS và Nhà nước, trong đó “có vấn đề nhiệm vụ quốc tế của đảng ta bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác Lênin, các kế hoạch 3 năm và 5 năm để xây dựng cơ sở vật chất của Chù Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc, tổng tiến công và chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam”. (2.1)

(Ngoài ra, theo tôi dười chế độ công sản mọi thứ phải được sự phê chuẩn của nhà nước. Dân chúng không được tư do tôn vinh, ca tụng người nào nếu người đó không nằm trong tiêu chuẩn của Ðảng và nhà nước; người hùng phải được cấp phép).

Ðiều đáng nói là sử liệu “dư luận đương thời tám chữ Phan Lâm Mãi Quốc; Triều Ðình Khi Dân” mà “người viết sử chân chính” Trần Huy Liệu vin vào để kết tội cụ Phan có phải là một chứng liệu xác thực hay không? Ông Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa Học lịch sử Việt Nam trong bài “Phan Thanh Giản, con người, sự nghiệp và bi kịch lịch sử” cho biết, nguồn gốc và xuất xứ chưa rõ. Cần tìm hiểu thêm. (3)

Linh cữu học trò già

Hội Nghị Khoa Học về cụ Phan Thanh Giản tháng 11/1994 tại Vĩnh Long đã kết luận câu nói trên là một loại tồn nghi qua truyền miệng không đáng tin. Theo Ông Nguyễn văn Trấn trong cuốn “Chợ Ðệm Quê Tôi” câu nói đó là câu nói của đàng ngoài. “Chớ tôi từng đọc sách sử, chưa thấy ở trong Nam này có sĩ phu bốc đồng nào nói ra câu bia miệng đó”. (4)

Ðàng khác, Cụ Ðồ Chiểu một lòng kính trọng cụ Phan; đã viết hai bài điếu cụ Phan và cuối đời trong bài “Văn tế lục tỉnh sĩ dân trân vong” đã cùng nói về Phan Học Sĩ và Trương Tướng Quân. Ông Nguyễn văn Châu, nguyên Trưởng ban tuyên giaó Tỉnh ủy Bến Tre, trong bài “Nguyễn Ðình Chiểu hiểu biết về Phan Thanh Giản”, cho biết đọc hết các hịch truyền, cáo thị của nghĩa quân Trương Ðinh tương truyền là do cụ Nguyễn Ðình Chiểu viết không tìm thấy tám chữ này.

Vả lại, chữ mải quốc không có ổn. Mải là bán; mà bán là một sự thuận nhượng để đổi vật; đổi mối lợi cho người bán. Không lẽ cụ Phan bán nước để lấy cái chết? Trước khi quyên sinh cụ gửi trả hết cho nhà vua chức tước, sắc phong; dặn con cháu không được cộng tác với giặc Pháp và chỉ đề chín chữ trên minh sinh cạnh quan tài cụ: linh cữu học trò già góc bể họ Phan. Ngôi mộ ở Ba Tri, Bến Tre, nơi sinh quán của cụ, gần như mộ một dân thường chỉ ghi: Lương Khê lão nông chi mô (ngôi mộ của người nông dân già họ Phan). Cụ thọ 71 tuổi (1796-1867).

Hai con trai của cụ, Phan Tôn, Phan Liêm, nổi lên chống Pháp tại tỉnh Vĩnh Long, lập thành nhóm Cần Vương từ tháng 7 đến tháng 11/1867; khi bị dẹp hai ông bỏ trốn ra Bình Thuận. Người ta lại gặp hai ông bên cạnh Nguyễn Tri Phương ở Hà nôi, rồi bị bắt giữ ngày 20/11/1873.

Dâng sáu tỉnh Nam Kỳ cho giặc

“Nhà sừ học cách mạng” Trần Huy Liệu còn gán cho cụ Phan tội dâng toàn bộ sáu tỉnh cho Pháp. Sư thực thế nào? Hòa Ước Nhâm Tuất 1862, Phan Thanh Giản thừa lệnh triều đình giao cho Pháp ba tỉnh miền Ðông với một số tiền bồi thường để đòi lại tỉnh Vĩnh Long. Ba tỉnh miền Ðông và Vĩnh Long đã bị Pháp chiếm sau khi thành Gia Ðịnh do Nguyễn Tri Phương trấn giữ bị thất thủ sau hai ngày rưởi đánh nhau. Giao hay không giao nó đã mất vào tay Pháp rồi.

Còn ba tỉnh miền Tây mất vì quyết định bất nhất của triều đình. Các người giữ thành Phan Thanh Giản, Trương văn Uyển, Nguyễn Hữu Cơ, Trần Hoan có trách nhiệm là để mất chớ không có giao. Hơn nữa, trước đó “có lời thẩm nghị của đình thần là:các quan chức phải bỏ thành không được kháng cự nếu quân Pháp tấn công” (5).

Ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ Tướng chính phủ, trong bài “Những suy nghĩ sau hai cuộc Hội Nghị về nhân vật Phan Thanh Giản viết “Càng có thời gian chúng ta càng thấy Phan Thanh Giản bị cái án oan. Nhưng Phan Thanh Giản là người rất nghiêm khắc với mình và vì vậy ông chấp nhận tất cả, kể cả cái chết do ông chọn ngày giờ và ra đi”.

Ngoài ra, là một nhà trí thức thành đạt nhất ở Nam Kỳ lúc bấy giờ, lại là một người nhân bản, cụ ý thức rõ không thể “lùa dê vào miệng cọp chỉ giết hại quân lính và làm tiêu tan tài sản của dân”. Vì cụ Phan:

“Thấy việc Âu Châu phải giựt mình
“Kêu gọi đồng bang: mau thức dậy
“Hết lời năn nỉ chẳng ai tin.”
nên cụ đã “quyên sinh, góp cái chết của mình để khóc cái chết của dân”. (5)

Tiến sĩ Võ Xuân Ðàn, trường Ðại Học Sư Phạm ở Saigon đặt một câu hỏi: “Trên tầm vĩ mô trách nhiệm mất VN, cuối thế kỷ XIX là Vương Triều Nguyễn. Ở tầm vi mô trách nhiệm này thuộc vua Tự Ðức và Phan Thanh Giản. Tự Ðức để mất nước VN; Phan Thanh Giản để mất Nam Kỳ. Còn Bắc Kỳ qua hai lần tấn công giặc Pháp củng đã chiếm được. Trách nhiệm để rơi về tay Pháp thuộc về ai mà việc mất Nam Kỳ luc tỉnh lại qui về cho Phan thanh Giản?” (6)

Thế kỷ XXI nhìn về cụ Phan

Tại Saigon ngày 16/8/03, tạp chí Xưa&Nay, Hội Khoa Học Lịch Sử VN, Hội Ðồng Khoa Học Xã Hội phối hợp tổ chức tọa đàm khoa học “Thế Kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” đã phổ biến một bản văn nói “ý kiến đồng thuận chung là không thể coi Phan Thanh Giản là “kẻ bán nước”. Nhân cách của Ông, cống hiến của Ông cho đất nước đã chiếm được tấm lòng ngưỡng mộ của nhân dân miền Nam”. Cuộc tọa đàm này là cuộc trao đổi tiếp theo hai cuộc hội nghị về những năm trước (1987 tại Bến Tre và 1996 tại Vĩnh Long) cũng nhằm đánh giá về cụ.

Bản văn còn cho biết,”Ðại biểu của nhiều tỉnh như Vĩnh Long, Bến Tre nêu nguyện vọng là Nhà Nước nên xem xét và đặt lại tên đường Phan Thanh Giản, trường học Phan Thanh Giản, sửa chữa bổ sung kiến thức về Phan Thanh Giản trong các sách giáo khoa, giáo trình để đông đảo đồng bào, nhân dân ta hiểu Phan Thanh Giản hơn và đặt Ông vào đúng vị trí trong lịch sử, trong đời sống văn hóa của nhân dân ta”.

Nhà văn Sơn Nam kể lại, hồi xưa khi đi ngang qua miếu Văn Thánh học trò phải cúi đầu chào ông Phan. Nhà văn nói:”Tôi lại vào bên hông miếu Văn Thánh để cúi đầu trước bức ảnh cụ Phan, chớ nào ai vào chánh điện để chào ông Khổng, ông Tăng Sâm Tử Lộ”. Nhà văn đề nghi, “trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ tình đủ lý”. (7)

Theo Tiến sĩ Võ Xuân Ðàn, “Ở Bến Tre, Vĩnh Long và cả Nam Kỳ lục tỉnh hàng trăm năm nay đã lưu truyền những chuyện kể, những truyền thuyết, giai thoại nói lên chí hiếu học, tinh thần yêu nước thương dân, cuộc sống thanh bạch, cần mẫn, liêm khiết, trung thực, khiêm nhường của Phan Thanh Giản và coi ông như một biểu tượng tốt đẹp và là niềm tự hào của quê hương xứ sở”. (6)

Phạm Phú Thứ; Nguyễn Ðình Chiểu

Chẳng những vậy, “hầu khắp các tỉnh ở Nam Kỳ không chỉ luôn luôn nhắc nhỡ, nhân dân còn lập bàn thờ thờ ông tại một số đình, đền chùa, miếu. Không ít nhà dân đã treo chân dung ông nơi trang trọng để thể hiện tình cảm như đối với người thân đáng kính trong thân tộc”. (7.1)

Giới trí thức lúc bấy giờ như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Ðình Chiểu, Nguyễn Thông rất thông cảm nỗi lòng cụ Phan. Bài điếu văn dài 99 câu của Phạm Phú Thứ có những câu như: “Lòng yêu nước sâu kín của Ngài đối với nước nhà đáng khóc lên được.. Ngài thật là một người học rộng và có phẩm cách hơn người. Có bao nhiêu người hiểu biết tình thế thật sư của nước nhà? Khi nghĩ lùi về nguyên nhân của trận giặc này, tôi rất buồn nhớ đến ý chí của Ngài (không được thực hiện). (8)

Cụ Ðồ Chiểu, có ngòi bút “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, đã làm hai bài thơ điếu cụ Phan một bằng chữ nôm, một bằng chữ hán. Cụ chỉ viết thơ điếu cho ba người.Trương Ðịnh, Phan Thanh Giản, Phan Ngọc Tòng. Minh trong sạch trải thờ ba chúa. Không Ông ai che chở dân lành. Hay trong lễ truy điệu nghĩa sĩ tại chợ Ðập, làng An Ðức, Ba Tri năm 1883, cụ đọc: Ít người được xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc (Phan học sĩ mưu quốc không thành, nhưng tên còn ghi trong tấm bảng phong thần). (9)

Cố học giả Vương Hồng Sển, trong cuốn Nửa Ðời Còn Lại, chương “Trở lại, thử tìm hiểu cảnh ngộ quan Phan khi đi sứ sang Pháp”, ông viết, “bấy lâu nay (1990), tôi nghe đầy tai lời trách quan Phan làm cho mất nước và vua Tự Ðức đứng đầu tội ấy. Thấp cổ bé miệng, tôi có dại gì cãi họ duy trong thâm tâm riêng tưởng họ chưa tới mắt cá quan Phan”.

Lợi dụng sự kiện lịch sử

Ðánh giá một nhân vật lịch sử ngoài việc dựa vào tính xác thật của các sử liệu, còn phải tìm hiểu thái độ của nhân dân đối với nhân vật đó. Bài tổng kết của “Người Anh Cả ” giới sử học Trần Huy Liệu đã lợi dụng các sự kiện lịch sử để phục vụ cho mục tiêu chính tri: phải đập xóa Phan Thanh Giản; biểu tượng của một nhà trí thức, yêu nước, có đầu óc canh tân, đầy lòng nhân ái. Vì sao? Vì nó trái với chủ trương “dẫu cho phải đốt sạch dãy Trường Sơn” hay “đánh Mỹ cho đến người VN cuối cùng” trong khi tổng tiến công chiếm miền Nam. Theo tôi, đó mới thật là theo “đạo dữ, là bất nhân, là phản bội”.

“Nhà báo” và ”chiến sĩ cách mạng” Trần Huy Liệu có quyền có ý kiến riêng, phê phán, đánh giá nhưng phải dựa vào những sử liệu có thật. Không thể lập luận hồ đồ (sáu chữ trong bài tổng kết). Ðúng. Không thể lập luận hồ đô. Phan Thanh Giản có dâng toàn bộ lục tỉnh Nam Kỳ cho giặc không? Không. Hơn nữa, dư luận nhân dân biểu hiện trong tám chữ đề cờ của dân quân Tân An Gò Công mà thủ lĩnh là Trương Công Ðịnh cho đến nay nguồn gốc và xuất xứ vẫn chưa rõ. Người viết sử không thể vin vào một sự kiện chưa rõ và không có cơ sở lý luận để kết tội một nhân vật lich sử.

“Nhà sử học” Trần Huy Liệu đã qua đời nhưng việc làm này không phải đơn độc, tự biên tự diễn; mà có hệ thống, có chỉ đạo. Vì sự công bình của lịch sử và là hậu duệ của cụ Phan, người viết bài này đòi hỏi các giới chức liên hệ; Viện Sử Học Việt Nam… phải có lời xin lỗi gia đình họ Phan chúng tôi về những cáo giác trong bài nhận định và những lời lẽ trong buổi đập tượng kết tội cụ Phan Thanh Giản trước một số đông người hồi tháng 5/1975 tại trường học mang tên cụ ở Cần Thơ.

Mặt khác, Giáo sư sử học Ðaị Học Quốc Gia Hà Nội Phan Huy Lê, Chủ tịch Hôi Khoa học lịch sử VN, có nói rằng kết quả và thái độ của hội thảo chắc sẽ giải tỏa phần nào những mặc cảm bấy lâu đè nặng lên tâm tư của nhiều người kể cả con cháu Phan Thanh Giản (3).

Vâng. Ðiều này đúng cho những ai đã làm một việc sai trái, tầm bậy: dùng uy quyền và bạo lực đập đổ một danh nhân của đất nước. Riêng chúng tôi chẳng hề có mặc cảm gì hết. Vì cụ đã qua nhiềù thử thách của thòi gian và thời đại. Xin trưng dẫn những lời nói về cụ:

-Thủ nghĩa để thành nhân; Ngài giữ trọn nghĩa vụ ấy (Phạm Phú Thứ);

-Một Học sĩ (Nguyễn Ðình Chiểu);

-Cầu cho người được đời đời tiếng thơm (Ðồng Khánh);

-Một sự nghiệp hiển hách (Phan văn Hùm);

-Một tấm gương cho cả thế hệ trẻ (thư một phụ huynh hoc sinh ở Cần thơ đề nghị lập tượng cụ Phan ngày 25/2/1966);

-Nhân vật lịch sử của Nam Bộ, của cả nước chứ không phải riệng gì Vĩnh Long và Bến Tre (Võ Văn Kiệt);

-Nhà yêu nước và người báo hiệu cho một nước VN mới (tựa sách của Phan thi Minh Lể).

Biết người mạnh; biết ta yếu

Nhân nhìn lùi về lịch sử vào những năm giữa thế kỷ XIX, thử xem phải chăng xu thế thiết lập hệ thống thuộc địa của Tây Phương là điều tất yếu? Không hẳn. Vào những năm này, thực tế cho thấy lưỡi gươm của Trương Công Ðịnh, Nguyễn Tri Phương,Thủ Khoa Huân…và ông vua Tự Ðức do dự, bất nhất không thể ngăn chặn được âm mưu xâm lược của thực dân. Riêng Nhật Bản và Thái Lan là hai nước thoát được nhờ họ biết họ yếu; họ nhượng bộ; họ học hỏi.

Nước Việt Nam có ai biết không? Có. Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ…Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Nửa Ðời Còn Lại cho biết cụ Phan đi sứ bên Tây về tâu: bên nước Pháp có thiết kiều, thạch lộ. Các quan trong triều chê: đi xa về nói khoác. Nước ta phú hữu tứ hải còn không đủ thép làm gươm mà họ có thép làm cầu. Họ làm gì có đá để lót đường vì trong khi nước ta không đủ đá để mài gươm cho sắc bén.

Trái lại, Nhật bổn sau khi hải cảng Tokyo bị hạm độị Mỹ oanh tạc, họ mở cửa cho nước ngoài vào buôn bán; nhượng bộ những yêu sách của Mỹ để đợi thời. Và chính nhờ vậy, nhờ sự đồng tâm, nhất trí Hoàng Ðế Mejii (Minh Trị) đã có thể thực hiện công cuộc hiện đại hóa đất nước mình. Sau gần 44 năm cải cách (1868-1912), Nhật Bổn lên thành một cường quốc hiện đại và hùng mạnh(10).

Thái lan cũng biết rõ nhược điểm của mình. Không đủ khả năng quân sự để đối phó, họ mua chuộc Anh hay Pháp bằng những thỏa hiệp ưu đãi mậu dịch; cải tổ thiên Tây phương rất khôn ngoan và ngoạn mục nhất là chính sách mời các cố vấn Tây Phương đến để giữ cho các đế quốc được hài lòng (11).

Nước ta có hào kiệt nhưng không có thế và có thời; cọng thêm ảnh hưởng quá sâu xa nền văn minh phong kiến Trung Quốc nên mới ra cơ sự ngày nay.

Bài này được viết nhân tạp chí Thế kỷ 21, ở California (Hoa Kỳ), số tháng 9/04 có chủ đề về Phan Thanh Giản. Chủ bút tạp chí là nhà văn Phạm Xụân Ðài, tức Phạm Phú Minh, hậu duệ của Phó Sứ Phạm Phú Thứ, trong sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp và Tây Ban Nha (1863-1864). Âu đó cũng là một điều hay và may./

Phan Thanh Tâm
Shoreview - 8/04


* Những chữ trong ngoặc kép về ông Trần Huy Liệu là những chữ của Viện Sử Học VN; 1- về sự nghiệp & vai trò lịch sử của PTG cua gs Văn Tạo;
2-quần chúng cảm thông để l/s đỡ phần nghiêm khắc của Vũ Ngọc Khánh;
2.1- Nghị Quyết Ðại Hội đảng kỳ III;
3-PTG con người sự nghiệp,và bi kịch l/s của Phan Huy Lê;
4-Chợ Ðêm Quê Tôi của Nguyễn Văn Trấn;
5-nhân cách lớn của Hoàng Lãi Giang;
6-Hãy trả về cho TS Phan Thanh Giản những giá trị và những hạn chế đích thực của TS Võ Xuân Ðàn;
7.1-Ông PTG đã dám nghĩ, dám làm và dám chịu của Nguyễn Hữu Hiệp;
7-Ban đọc & toa soan XưA&Nay số 146;
8-PTG và nỗi đau 100 năm của Hoàng Lại Giang;
9-Nguyễn Ðình Chiểu hiểu Biết về PTG của Nguyen văn Châu;
10-bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuốc địa Pháp ở VN (1858-1897) của Nguyễn xuân Thọ;
11-Vương quyền Thái Lan đài BBC;
(1, 2, 3, 5, 6, 7.1, 9, là những ý kiến phổ biến trong các cuốc hội thảo vê PTG).

========


Đại Thần Phan Thanh Giản: Phục hồi danh dự và bảo tồn các di tích văn hoá lịch sử

Tiến sĩ Huỳnh Long Vân 2009





Đại Thần Phan Thanh Giản
Sau ngày 30/04/1975, ở miền Nam Việt Nam có 3 ngôi trường trung học nỗi tiếng bị mất tên. Đó là trường trung học Pétrus Ký, Nữ Trung học Gia Long ở Sài Gòn và trường trung học Phan Thanh Giản ở Cần Thơ. Lý do các trường này bị đổi tên vì nhà cầm quyền (Không dùng từ này) Việt Nam ((Không dùng từ này)) xếp vua Gia Long, đại thần Phan Thanh Giản và nhà bác ngữ học Pétrus Trương Vĩnh Ký vào hạng những tội đồ của lịch sử.

Riêng đối với cụ Phan Thanh Giản, nhà cầm quyền (Không dùng từ này) kết án Ông là “kẻ hèn nhát dâng thành cho giặc, tên bán nước”.

1. Bản án lịch sử bất công

Trong bài tham luận “Chén đắng rượu xuân thu: Bi kịch Phan Thanh Giản” Nhà nghiên cứu sử học Cao Tự Thanh có nhận xét: Ông Phan Thanh Giản là một nhân vật lịch sử có số phận khác thường, đã chết đến 4 lần (1).

Lần thứ nhứt, Ông uống thuốc độc tự tử, sau khi 3 tỉnh miền Tây mất vào tay giặc Pháp.
Lần thứ hai, Ông bị giặc Pháp ám sát, đâm sau lưng bằng những lời lẽ khen Ông đã sáng suốt không chống lại Pháp.
Lần thứ ba, mặc dù đã tự xử bằng chén thuốc độc, nhưng Ông vẫn bị triều đình Tự Đức bức tử với bản án “truy đoạt tất cả chức hàm, đục tên trong bia Tiến sĩ, giữ mãi cái án trảm giam hậu” (2) .
Lần thứ tư, khi nhà cầm quyền Bắc Việt quyết định dùng vũ lực để giải quyết tình trạng đất nước Việt Nam bị chia đôi, thì nền sử học miền Bắc từ bỏ chức năng thiêng liêng: tôn trọng, gìn giữ cùng phát huy những giá trị trung thực của lịch sử, để đi vào con đường phục vụ chính trị đương thời và xử tử ông Phan Thanh Giản, gây ra một công án đau lòng.
Thật thế, hơn 40 năm trước vào thời gian 1962-1963, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, cơ quan ngôn luận của Viện Sử học miền Bắc, có tổ chức một loạt các cuộc hội thảo khá sôi nổi chung quanh việc đánh giá một số triều đại và một số nhân vật lịch sử Việt Nam. Công việc được chuẩn bị cho các cuộc thảo luận này đã được tiến hành rất bài bản. Trong số các nhân vật lịch sử VN được tập trung thảo luận để đánh giá, có Ông Phan Thanh Giản. Nhưng riêng đối với Cụ Phan, thì kết thúc cuộc hội thảo cũng chẳng khác gì kết thúc một phiên toà lịch sử, mà ở đó, ông phải nhận một bản án nghiêm khắc, với những tội danh khó lòng dung thứ được (3).

Ở cuộc thảo luận này, chỉ có hai nhà nghiên cứu Đăng Huy Vận và Chương Thâu, là những người đã cố gắng đặt Ông Phan Thanh Giản trong mối quan hệ chặt chẻ và phức tạp với triều đình Huế để đánh giá và đồng thời đã bình tỉnh ghi nhận chút lòng ưu dân ái quốc của cụ Phan Thanh Giản. Đối với việc này, Ông Trần Huy Liệu, Viện Trưởng Viện Sử học, cho biết: “Điều đáng lưu ý là: Trong quá trình thảo luận, hai bạn Chương Thâu và Đặng Huy Vận trong chỗ không ngờ đã trở nên đối tượng cho một loạt súng bắn vào, chỉ vì hai bạn còn có chỗ chưa dứt khóat về tình cảm với họ Phan” (3).

Và Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 55, tháng 10/1963, công bố bài kết luận của Ông Trần Huy Liệu, dưới tiêu đề: “Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh Giản”. Quan điểm chung của bài kết luận là lên án cụ Phan Thanh Giản: “Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại nguyện vọng và quyền lợi tối cao của tổ quốc và dân tộc”, là phạm tội “ dâng thành hiến đất cho giặc” và từ đó phủ nhận tất cả tư đức của ông như “đức tính liêm khiết”, ”lòng yêu nước, thương dân”....và bài báo kết luận: vì “công đức đã bại hoại thì tư đức còn gì đáng kể” (4).

Đây là bản án tử hình lần thứ tư dành cho Ông Phan Thanh Giản, kẻ đầu hàng giặc hôm qua, cũng sẽ là bản án dành cho mọi hành động khuất phục trước sức mạnh vật chất của kẻ xâm lược hôm nay: năm 1867 là Pháp, và năm 1963 là Mỹ và Đồng minh (1) .

Từ sau bài tổng kết quyết liệt đó, nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản kể như được an bài trong sổ bìa đen, để sau ngày 30/04/1975 trước hết đường Phan Thanh Giản ở Sài Gòn đổi thành đường Điện Biên Phủ, và ở một số nơi có những đề nghị xoá bỏ hay hạn chế việc duy trì và tu tạo những di tích lich sử về cụ Phan. Tượng cụ Phan trong Văn Thánh Miếu ở Vĩnh Long bị bắn xuyên tim, tượng toàn thân đúc bằng đồng tại trung tâm công trường An Hội, Thị xã Bến Tre bị kéo sập, mộ của Cụ ở xã Bảo Thạnh bi bỏ hoang và sau cùng là trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ bị mất tên với bức tượng cụ Phan đội mũ cánh chuồn giữa sân trường bị đập gẫy cổ.

.............Tháng năm, tháng bắt đầu của mùa nghỉ hè, nhưng bây giờ tháng năm 1975, không còn là những bài lưu bút ngày xanh, những bịn rịn lưu luyến trong ngày chia tay nữa, mà là lệ đổ và nỗi câm lặng khủng khiếp......Một ngày (của tháng 5 năm 1975), hình như buổi xế trưa thì phải, chúng tôi được lệnh tập trung tại sân cờ. Ðây là lần đầu tiên, chúng tôi được lệnh tập trung. Có biến cố gì không. Có thay đổi gì trong chính sách không. Không ai có thể biết được. Rồi một viên thượng úy đứng trên bậc thềm xi măng dưới cột cờ, cầm giấy đọc. Y đọc gì. Không. Y kết tội. Lần này không phải buộc tội chúng tôi, ngụy quân, ngụy quyền, phản động, tay sai. Mà y kết tội cụ Phan Thanh Giản. Y không kêu là cụ, là ông, mà từ đầu bài đến cuối bài là chữ "tên". Tên bán nước. Tên đầu hàng. Tên có tội đối với nhân dân. Tên tự tử vì hèn nhát. Tên tiêu cực. Tôi không thể nhớ nổi bao nhiêu chữ «tên» mà y dùng. Sau đó là hai tay cảnh vệ dùng búa đập tượng. Ðập cuồng điên. Những mảnh xi măng văng ra tơi tả. Những tiếng búa khô thốc. Nhưng họ không phá hết. Họ vẫn còn chừa lại tấm thân bị thương tích bên chiếc đầu gãy lìa khỏi cổ.

Thưa cụ. Pho tượng không có đau. Nhưng lòng con cháu đau. Cụ đã bay lên một cõi nào rồi, viễn du ở một tận cùng vô định rồi. Nhưng cháu con của cụ thì đau lắm. Những nhát búa như mang theo những vết cứa lên buồng tim.

Có lẽ chúng tôi bây giờ mang tâm trạng của đứa con bị buộc phải nhìn cảnh người thân bị hành xử ngoài công cộng. Nhưng còn hơn thế nữa. Bởi vì nơi đây, không phải là thân nhân, nhưng là di sản, là lịch sử, là niềm tự hào. Kể từ nay, con cháu chúng tôi sẽ không còn được đọc trên trang sách sử về một người sĩ phu bất khuất, chọn cái chết để cứu người, và để giữ cái tiết tháo của kẽ sĩ như cụ Phan nữa (5).

2. Phục hồi danh dự cụ Phan Thanh Giản

Bản án năm 1963 Nhà cầm quyền Bắc Việt dành cho cụ Phan là một bất công lịch sử vì ngay lúc ấy, bên cạnh thái độ lên án, cũng có những ý kiến muốn đánh giá Ông một cách toàn diện, khách quan hơn và phải ghi nhận những phẫm giá, nhân cách của Ông một cách thỏa đáng hơn.

Ngay sau khi cuộc thảo luận 1963 kết thúc với kết luận lên án và phê phán nặng nề như thế, GS Ca Văn Thỉnh, Giám Đốc Thư viện Quốc gia Hà Nội, với tư cách là một người con của Bến Tre, của Nam kỳ Lục tỉnh tỏ thái độ băn khoăn và không đồng ý (6). Ở những năm sau thời điểm 1975, người dân và ngay cả các giới chức cầm quyền của các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long cũng bày tỏ mong mỏi và đòi hỏi các nhà sử học và công luận làm sáng tỏ hơn thân thế và sự nghiệp của Ông Phan Thanh Giản với tất cả những gì Ông để lại cho lịch sử và trong lòng dân, những thành công và thất bại, mặt tích cực và hạn chế cùng những trăn trở và uẩn khúc của đời Ông. Những thay đổi về tư duy kinh tế vào năm 1986 dần dần được mở rộng sang lãnh vực khoa học xã hội và nhân văn, tạo điều kiện thuận lợi để nhiều nhà sử học đánh giá lại cụ Phan Thanh Giản một cách khách quan và đầy đủ hơn.

Đó là những lý do đưa đến cuộc Hội thảo Khoa học Lịch sử thảo luận về Cụ Phan Thanh Giản tổ chức tại Vĩnh Long vào tháng 11/1994. Thành phần tham dự gồm lãnh đạo các cơ quan chức năng của hai tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Quốc Gia, Hội Khoa học Lịch sử VN và Ban Khoa học Xã hội, Sài Gòn. Cuộc Hội thảo đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề trong giai đoạn cuối đời cũng như xem xét và đánh giá con người và sự nghiệp cụ Phan Thanh Giản trong giai đoạn thiếu thời lo ăn học từ 1796 đến khi đổ Tiến sĩ năm 1826 và giai đoạn làm quan phụng sự ba triều Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức từ năm 1826 đến năm 1862 (6).

Kết quả cuộc hội thảo này, là nhận rõ những mặt hạn chế và bế tắc của cụ Phan Thanh Giản: chỉ ra trách nhiệm của cụ Phan Thanh Giản trong trách nhiệm chủ yếu thuộc về vua Tự Đức và Triều Nguyễn, nhưng tất cả đều đồng ý không thể quy kết cho ông cái tội “bán nước” hay “phản bội tổ quốc và đồng thời trân trọng ghi nhận những cống hiến tích cực của ông trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp, đánh giá cao nhân cách và phẫm chất cao quý của ông (6) .

Cuộc hội thảo năm 1994 đánh dấu một bước mới trong nhận thức và đánh giá về cụ Phan, được xem như một nỗ lực phục hồi danh dự cụ Phan trong dè dặt vì đồng thời cũng mở ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu như: đâu là sự thật về câu nói truyền miệng “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”(6), hoặc hài kịch kêu gọi đầu hàng của ông Phan Thanh Giản với lời: “Ta đã biên thư cho tất cả các quan và tất cả chỉ huy quân sự là phải bẻ gãy giáo mác và trao lại thành lủy mà không giao chiến”(7) và những tư liệu của Pháp miêu tả như cụ Phan Thanh Giản đã đầu hàng trao thành cho giặc (8).

.............Nếu sau ngày 30/04/1975 có người hốt hoảng, sợ liên lụy đến Ông Phan Thanh Giản và đem cất dấu đồ đạt phụng thờ Ông thì cũng có người can đảm như Ông Nguyễn Sinh Trung, người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, một cán bộ CS nghỉ hưu, cư ngụ ở số 15/5A đường Nguyễn An Ninh, TP Vũng Tàu, vào ngày 6 tháng 3 năm 1994 viết thư gởi Bộ Chánh Trị, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng (Không dùng từ này), Chủ Tịch Nhà Nước và Quốc Hội nước CHXHCNVN đề nghị xem xét lai cho thấu tình đạt lý về hai nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký. Ông còn cho biết thêm lý do thư không gởi cho Thủ Tướng vì trước đó vào ngày 14/03/1993 ông đã viết một lá thư đến Ông Phạm Văn Đồng kiến nghị về cùng vấn đề mà không được phúc đáp. Bức thư của ông Nguyển Sinh Trung đến tay GS Văn Tạo, Viện Trưởng Viện Sử học năm 1997 và sau cùng vào năm 2000 đến tay cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt. Vốn là người hết lòng ái mộ cụ Phan, Ông Võ Văn Kiệt đã bỏ ra 3 năm để đọc tất cả các tài liệu về cụ Phan và đến ngày 15/07/2003 viết thư cho Ông Dương Trung Quốc, Tổng Thư Ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam để nghị các nhà sử học làm sáng tỏ vấn đề cụ Phan Thanh Giản (9).

Đây là giọt nước làm tràn ly

Vào ngày 16 tháng 8 năm 2003, Hội Khoa học Lịch sử VN, dưới sự chủ tọa của GS Chủ tịch Phan Huy Lê, tổ chức buổi Tọa đàm: ” Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” ở Sở Bảo Tàng, Sài Gòn với mục đích, lần sau cùng làm sáng tỏ toàn bộ vấn đề cụ Phan Thanh Giản. Buổi Tọa đàm được sự hiện diện đông đảo của hơn một trăm nhà sử học, nhà nghiên cứu, nhà chánh trị, nhân sĩ đến từ Hà Nội, Sài Gòn từ các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Bạc Liêu, Bà Rịa-Vũng Tàu, Huế, Quảng Nam ....(10) và đặc biệt có sự tham dự của nhà sử học TS Phan Thị Minh Lễ đến từ Paris, với những tư liệu mới nhứt về việc Pháp âm mưu chiếm 3 tỉnh miền Tây (11).

Và trong buổi Tọa đàm này với nhiều bài tham luận xử dụng những tư liệu cụ thể của triều đình Huế như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện và nhứt là Châu bản triều Nguyễn để so sánh và chỉ ra tính thiếu trung thực của một số tư liệu của quan chức Pháp như De La Grandière, Paul Vial, E. Luro....miêu tả cụ Phan Thanh Giản đã đầu hàng trao thành Vĩnh Long cho Pháp (7,8) rồi viết thư bắt các thành An Giang Hà Tiên cũng phải nộp nốt cho Pháp. Nhiều tác giả đã cố gắng khai thác thêm những sử liệu trong các di tích lịch sử, văn học dân gian và trong các tác phẩm Lương Khê thi thảo, Lương Khê văn thảo của cụ Phan Thanh Giản (12,13).

Các bài tham luận và phát biểu tại buổi hội thảo về gần như mọi khía cạnh của cuộc sống và sự nghiệp của cụ Phan. Trước hết là về nhân cách, hầu như mọi người đều nhất trí với nhận định Ông là quan thanh liêm vào hàng số một của triều Nguyễn, có lòng thương dân vào loại hiếm, cương trực ngay cả đối với vua, hiếu để với bậc sinh thành, với thầy, với ân nhân....(6).

* Một thành viên khác cho biết: “Tại Quảng Nam, Cụ Phan Thanh Giản được người dân xem như một nhân vật huyền thoại, nhất là khi ông qua đời một cách hùng tráng và bi thảm hết lòng vì dân vì nước”(14).

* Trong bài tham luận: “Phan Thanh Giản- Một nho sĩ có nhân cách”, tác giả Minh Chi trong phần kết luận đã phát biểu như sau: Thật thà mà nói, từ đất nước Việt Nam một thời vang bóng ra ngõ gặp anh hùng, nhưng hiện tại tệ nạn xã hội tràn lan, tham nhũng trở thành một quốc nạn, đạo đức cán bộ không phải xuống cấp mà là xuống dốc, tôi rất thẹn thùng ngồi đây mà bàn về nhân cách của Ông Phan Thanh Giản (15).

* Sau cùng, Ông Võ Văn Kiệt, phát biểu như sau: Hai cuộc hội thảo tôi dự đã làm cho tôi hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn nhân vật này; Phan Thanh Giản có cách yêu nước của Phan Thanh Giản, Trương Định có cách yêu nước của Trương Định và tôi khẳng định Phan Thanh Giản là người yêu nước (16).

Tổng kết buổi Toạ đàm GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học khẳng định: “Cụ Phan Thanh Giản là một nhà yêu nước, thương dân, trọng dân muốn bảo vệ quyền lợi dân tộc bằng cách gắn quyền lợi đó với ý thức thương dân, tinh thần “ dựng nước” trong điều kiện mới và với lòng mong muốn canh tân đất nước. Công lao xây dựng đất nước và đức liêm chính của cụ Phan, trong điều kiện lịch sử lúc đó thật đáng ca ngợi, phải đánh giá là xuất sắc. Những hoạt động dựng nước của cụ trước khi cụ qua đời gắn liền với những di chúc của Cụ cho con cháu và cho hậu thế sau khi qua đời đã biểu hiện rỏ: Cụ là một trong những nhà yêu nước đầu tiên có xu hướng canh tân xứ sở. Sự quyên sinh của Cụ trong điều kiện và hoàn cảnh đó là đáng được ca ngợi, bởi nó biểu lộ rõ phẩm chất của một người suốt đời tận tụy với dân với nước, nhận trách nhiệm không bảo vệ được lãnh thổ, không ham danh ham lợi, không tham sống sợ chết, đã tự nguyện quyên sinh (17).

Kết án cụ Phan bán nước là biến cố lịch sử gây xúc động không nhỏ đối với những ai biết yêu lẽ phải, tính trung thực của lịch sử và lòng tôn kính tiền nhân. Những phê phán đánh giá sai lầm này bắt nguồn từ:

* Thập niên 60, một số nhà sử học miền Bắc, trong vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phạm những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, máy móc, từ đó phủ nhận tất cả tư đức của cụ Phan như “đức tính liêm khiết”, “lòng yêu nước”,“ thương dân”, kết án Ông là người bán nước, dâng thành cho giặc Pháp.

* Sự qui kết không có căn cứ, quá nặng nề trên, vừa không đúng với hành động và động cơ của ông Phan Thanh Giản, vừa trái với tấm lòng ngưỡng mộ và kính mến mà xưa nay nhân dân, quê hương vẫn dành cho ông. Dưới sự thúc đẩy của đa số người dân miền Nam, một số nhà sử học chánh thống đã đánh giá và trả lại cho Cụ những giá trị đích thật về cuộc đời, sự nghiệp và lòng yêu nước thương dân của ông.

Vì lịch sử là một bộ môn đòi hỏi tính chính xác khoa học nên chúng ta ước mong những nhà sử học VN trong hiện tại và ở tương lai, đặt lương tâm chức nghiệp lên trên mọi sức ép của các thể chế đương quyền, để bảo đảm tính trung thực của lịch sử, và trong bế tắc hãy dùng lòng dân làm thước đo phẩm cách và nấc thang giá trị của các nhân vật lịch sử.

3. Trùng tu và tôn tạo các di tích văn hoá lịch sử

Kết quả cuộc hội thảo 1994 và Toạ đàm 2003 đánh dấu một chặn đường dài trong nhận thức và đánh giá về cụ Phan với những biến thiên của lịch sử đất nước và chân dung Phan học sĩ đang dần trở lại trong cái nhìn kính trọng của dân tộc, đặc biệt đối với người dân miền Nam như nhà thơ ái quốc Nguyễn Đình Chiểu ngày xưa đã từng công bằng bình phẩm:

Minh sinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ đây mặc gió thu.

Ngày 20/01/2008 Viện Sử học nước CHXHCNVN ra Văn Thư công nhận cụ Phan Thanh Giản là người yêu nước, thương dân, thanh liêm, cương trực, đã đóng góp cho xứ sở và dân tộc trên nhiều lãnh vực khác nhau bao gồm chánh trị, ngoại giao, văn học..... xứng đáng được lịch sử tôn vinh. Lãnh đạo của các Tỉnh, Thành ở miền Nam tỏ ra rất đồng tình với ý kiến của giới sử học. Điển hình là lần lượt các di tích văn hoá liên quan đến cụ Phan được trùng tu và tôn tạo:

* Tượng Đại học sĩ được an vị ở Văn Thánh Miếu, Vĩnh Long vào ngày 5/08/2008 (18).

* Bến Tre có ngôi trường trung học phổ thông Phan Thanh Giản Ba Tri từ đầu niên học 2008-2009 (19) và nơi đây, lễ khánh tượng Cụ Phan được tổ chức vào ngày 18/04/2009 (20) .

* Ngày 21/05/2009, TP Cần Thơ tổ chức buổi Toạ đàm thảo luận về phương án trùng tu trường Châu Văn Liêm và hoàn lại tên Phan Thanh Gản. Trong phiên họp, các giới chức tham dự, đa số là các cán bộ lãnh đạo đảng, ủng hộ hoàn trả danh xưng Phan Thanh Giản và giữ nguyên nét kiến trúc hiện nay của ngôi trường (19).

Phát biểu của các giới chức hữu quyền của TP Cần Thơ, sau buổi Tọa đàm:

“TRẢ LẠI CHO CỤ NGÔI TRƯỜNG VÌ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHAN THANH GIẢN LÀ NƠI ĐÀO TẠO RẤT NHIỀU NHÂN TÀI PHỤC VỤ XỨ SỞ VÀ DÂN TỘC, TRONG ĐÓ CÓ CÁC ÔNG CHÂU VĂN LIÊM, LƯU HỮU PHƯỚC VÀ SƠN NAM” là một khích lệ lớn lao dành cho những ai, trong nhiều năm qua, đã dấn thân nhằm chu toàn một nhiệm vụ vô cùng khó khăn với ước vọng được nhìn thấy

“TRƯỜNG TRUNG HỌC PHAN THANH GIẢN là NGÔI TRƯỜNG CỦA MỌI THẾ HỆ CỦA CON DÂN & XỨ SỞ CẦN THƠ”.


Tài liệu tham khảo

Cao Tự Thanh: Chén đáng rượu xuân thu - Bi kịch Phan Thanh Giản. Tạp chí Xưa & Nay sốtháng 12/2003.
Đại Nam thực lục, tr.31, Hà Nội, 1974, tr. 296.
Nguyễn Khắc Thuần: Trở lại vấn đề Phan Thanh Giản. Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, tr.185-190.
Trần Huy Liệu: Chúng ta đã nhất trí về việc nhân định Phan Thanh Giản. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 55, tháng 10/1963, tr. 18-19.
Trần Hoài Thư: Về một ngôi trường. Tạp chí Thế kỷ 21 số 185, tr.95-96, tháng 9/2004.
Phan Huy Lê: Phan Thanh Giản (1796-1867): Con người, sự nghiệp và bi kịch cuộc đời. Tạp chí Xưa&Nay số tháng 8/2000.
Paul Brando: Recits et Nouvelles, Paris 1897, dẫn theo Trương Bá Cẩn, Phan Thanh Giản với việc mất 6 tỉnh Nam bộ vào tay thực dân Pháp. Tham luậm số 7.
Octave Fore: Les regions inconnues: chase, pêche, aventure et découverts dans L’Extrême Orient. Paris 1870, dẫn theo Tham luận số 7.
Nguyễn Hạnh: Câu chuyện Võ Văn Kiệt với “Đại học sĩ” Phan Thanh Giản. Dấu ấn Võ Văn Kiệt, tr. 265-267, tháng 08/2008. Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn.
Nguyễn Nghị: Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, số 35-2003.
Phan Thị Minh Lễ et Pierre Ph. Chanfreau: Phan Thanh Giản patriote et precurseur du Vietnam moderne. L’ Hartmattan 2002.
Chương Thâu: Giới thiệu Di cảo Phan Thanh Giản: Lương Khê thi văn thảo. Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, tr.85-97.
Việt Chung: Lương Khê Phan Thanh Giản với văn học Nam Bộ. Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, tr.203-213.
Nguyễn Văn Xuân: Phan Thanh Giản và Quảng Nam. Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, tr.125-132.
Minh Chi: Phan Thanh Giản: Một nho sĩ nhân cách. Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, tr.133-138.
Võ Văn Kiệt: Những suy nghĩ sau hai cuộc hội nghị về nhân vật Phan Thanh Giản. Tạp chí Xưa & Nay số tháng 9/2003.
Văn Tạo: Sự nghiệp và vai trò lịch sử của Phan Thanh Giản. Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, tr.23-36.
An vị tượng Phan Thanh Giản tại Khu Văn Thánh Miếu Vĩnh Long. Việt Báo 06/08/2008.
Huỳnh Long Vân: Phan Thanh Giản Cần Thơ: Con đường tôi đi. Đặc san Cần Thơ số 3 tháng 8/2009.
Lễ an vị tượng Đại học sĩ Phan Thanh Giản tại trường THPT .


========

Phan Thanh Giản

(1796 -1867)



Phan Thanh Giản tự Tịnh Bá hay Đạm Như, hiệu Lương Khê, biệt hiệu Mai Xuyên sinh năm 1796 tại làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh nay là làng Bảo Thạnh quận Ba Tri tỉnh Kiến Hòa.

Thân phụ ông là Phan Thanh Ngạn hiệu Mai Dã, năm lên bảy, mẹ ông mất, cha ông cưới bà Trần Thị Dưỡng, bà là một bậc hiền mẫu nên lo cho ông học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở làng Phú Ngãi. Cha ông vì tính cương trực nên bị quan trên hãm hại, bị giam trong ngục ba năm rồi sau lại bị khép tội và kết án thêm một năm tù. Lúc ấy ông được hai mươi tuổi, trong khi cha bị tù, ông lên Vĩnh Long lo việc phụng dưỡng cho cha, thấy ông hiếu thảo nên Hiệp Trấn Lương cảm thương, khi cha ông mãn tù, cha ông trở về quê nhà còn ông thì được Hiệp Trấn Lương khuyên ở lại Vĩnh Long cấp cho sách vở đi học.

Năm Ất Đậu 1825, thi Hương tại trường Gia Định, ông đỗ Cử nhân. Năm Bính Tuất 1826, tại kinh đô Huế dự thi Hội ông đỗ Tiến sĩ, ông là vị tiến sĩ đầu tiên của miền Nam, khi đi thi Hội ông đã làm tập Du kinh.

Sau khi thi đỗ, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Mỹ người làng Mỹ Lộc, huyện Phước Lộc, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay là Cần Giuộc).
Tháng 8 năm ấy ông được triệu ra Huế làm Hàn Lâm viện biên tu. Thi văn ông còn để lại bài thơ “Ký nội”, có lẽ ông sáng tác trong lúc này :

Từ thuở vương se mối chỉ hồng,
Tình này ghi tạc có non song.
Đường mây cười kẻ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước nợ trai đành nỗi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng.
Mấy lời dặn nhủ khi lâm biệt,
Rằng nhớ, rằng quên lòng hỡi lòng?

Năm 1827, bà Nguyễn Thị Mỹ hạ sinh một gái, nhưng không thọ mà sau đó bà cũng qua đời. Năm sau khi lãnh chức Tham hiệp tỉnh Quảng Bình, ông cưới con gái của Án sát trí sĩ Trần Công Án là bà Trần Thị Hoạch ở làng Đơn Duệ, huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị. Sau khi cưới xong, ông nhờ vợ vào Nam nuôi dưỡng cha già.

Dưới triều Minh Mạng

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), Phan Thanh Giản được cử làm Hiệp Trấn Quảng Nam, trong tỉnh có giặc do tên Cao Gồng cầm đầu, chúng quấy phá nên Phan Thanh Giản cầm quân đi dẹp, nhưng thua trận nên vua cách hết chức tước và bắt làm lính tiền quân, tuân lệnh vua, mỗi khi ra trận ông lại đi đầu chẳng quảng sinh tử. Khi dẹp giặc yên, ông được cử đi công cán ở Singapour.

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), ông được cử làm Phó sứ (đi sứ nhà Thanh), khi đi ngang qua ải Đồng Quan ông có thơ vịnh :

Buổi sứ trình đêm mưa ngày tuyết,
Bạn cố tri mảnh nguyệt quan san.
Rạng ngày đến cửa Đồng Quan,
Tiếng xưa thập khứ nhứt hoàn là đây.

Trong thời gian đi sứ, ông có sáng tác một số thi văn làm thành tập Kim đài thi tập. Tháng 3 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), sứ bộ trở về vua thăng chức Đại lý Tự khanh (chánh tam phẩm), kiêm Hình bộ sự vụ, sung Cơ mật viện đại thần.

Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sau khi Trường Minh Giảng lập công chúa Ang-Mey (con vua Nặc Ông Chân vừa mới mất) lên làm quận chúa và đổi tên Chân Lạp là trấn Tây Thành, vua sai Phan Thanh Giản đi kinh lược, lúc đi ông có gửi thư cho Phan Thanh Ngạn lên Vĩnh Long chờ lúc ông làm xong nhiệm vụ, trên đường về kinh có dịp thăm cha, chớ ông không nghĩ đến việc về quê thăm cha và vợ sợ bê trễ quốc sự, chứng tỏ ông là người trung hiếu vẹn toàn. Sau khi về kinh, ông lại lãnh chức Quảng Nam Bố chánh và quyền lãnh chức Tuần phủ.

Tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836), vua thấy trong nước yên ổn nên muốn viếng thăm tỉnh Quảng Nam, Phan Thanh Giản dâng sớ tâu “Được nghe trong mùa hạ, nhà vua sẽ tuần hạnh Quảng Nam, hạt dân thảy đều mừng rỡ, nhưng năm này trời hạn, dân đói, lại thêm tháng tư, tháng năm là lúc làm mùa, xin nhà vua tạm đình việc ấy....” Vua không được hài lòng về việc này, bèn sai Ngự Sử Võ Duy Tân đi kinh lược. Võ Duy Tân về tâu lại là nhân dân mong vua ngự đến mà trong tỉnh thì việc chánh trị trễ nãi, còn quan lại thì làm điều nhũng tệ, vua Minh Mạng tin lời nên giáng Phan Thanh Giản làm Lục phẩm thuộc viên cũng tại Quảng Nam, công việc của ông lúc ấy là quét dọn bàn ghế ở công đường. Giữ việc giấy tờ để các quan sai phái, vài tháng sau Phan Thanh Giản lại được cất nhắc lên chức Nội các thừa chỉ, sau lại thăng Hộ bộ lang trung, giữ chức Biện lý trong Bộ hộ rồi làm Lễ bộ lang trung.

Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), vì người trong Quang Lộc tự làm không đúng lễ nên ông bị giáng hai cấp. Sau ông lại thăng Hộ bộ lang trung và được phái làm Thừa thiên đường Phó chủ khảo, cùng năm này ông được thăng Hộ bộ Hữu thị lang, sung Cơ mật viện đại thần, rồi phụng chỉ làm bộ Minh Mạng chánh yếu.

Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), có sớ thuộc về Hộ bộ, sau khi vua phê xong, nhằm ngày ông thị sự mà không đóng ấn vào tờ châu phê ấy, nên vua giáng ông xuống làm Lang trung biện lý bộ vụ, sai vào vùng “Chiên đàn nguyên” (chổ Cao Gồng làm loạn khi trước) thuộc tỉnh Quảng Nam trông coi việc khai mỏ vàng, sau ra Thái Nguyên trông coi việc khai mỏ bạc.

Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), vua đòi Phan Thanh Giản về làm thông chánh Phó sứ (Thuộc ty thông chánh sứ, chuyên coi về việc các tỉnh có biểu chương hoặc công văn chuyển về kinh thì Ty này chuyển lại cho các bộ. Trước thuộc bộ binh trông coi, từ năm 1834 mới đặt thành một Ty)
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), khi làm Thừa Thiên trường phó chủ khảo, có sĩ tử Mai Trước Tòng làm bài phú trùng vận mà ông không kiểm soát kỹ, nên bị vua giáng một cấp.

Dưới triều Thiệu Trị

Dưới triều Thiệu Trị (1841-1847), năm đầu ông được thăng Binh bộ hữu tham tri sung cơ mật viện, được cử làm Hà Nội trường chánh chủ khảo.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Phan Thanh Ngạn tạ thế, vua có ban vàng bạc cho ông về Tống táng, sau khi mãn hạn ông phải trở về kinh, có lẽ lúc từ giã Phan Thanh Nhơn bịnh rịn nên ông có làm bài thơ tứ tuyệt :

Thương vua mến chúa phải ra đi,
Bịnh rịn làm chi thói nữ nhi.
Muôn dặm trường an mau trở lại,
Vào chầu bệ ngọc hở (?) lòng suy.

Năm Thiệu Tri thứ 4 (1844), ông được thăng Tả phó Đô ngự sử, năm 1846 thự Hình bộ Thượng thư, sau đổi làm Thự lễ Bộ thượng thư. Năm Thiệu trị thứ 7 (1847), là năm Đại kế (xét công cán các quan trong triều) vua Thiệu Trị có ra chỉ dụ ban khen Phan Thanh Giản là có công khó nhọc lo lắng việc biên thùy giữ gìn nơi kinh nội đâu đó đều xong. Nên sau đó ông được thăng Hình bộ Thượng thư. Suốt triều vua Thiệu Trị ông đều luôn luôn được sung Cơ mật viện.

Dưới triều Tự Đức

Đến Tự Đức nguyên niên (1848), Phan Thanh Giản được bổ qua Lại bộ Thượng thư sung Cơ mật việc đại thần, được bổ làm Hội thí trường chủ khảo và lãnh chức Kinh diên giảng quan để đọc sách, cắt nghĩa cho vua nghe.

Năm 1850, Phan Thanh Giản lãnh chức Tả Kỳ kinh lược đại sứ lãnh Bình phủ Tổng đốc và kiêm cả Thuận khánh đạo.

Năm 1851, Phan thanh Giản được bổ làm Nam kỳ kinh lược phó sứ, đến năm 1853, ông được triệu về kinh thăng Hiệp biện đại học sĩ (Tòng nhất phẩm) lãnh Binh bộ Thượng thư và lãnh làm bộ Khâm định việt sử thông giám cương mục.

Năm 1862, ông được cử làm Nghị hòa chánh sứ toàn quyền đại thần để thương nghị với Pháp ở Gia Định, rồi ông phải ký hòa ước Nhâm Tuất với Đề đốc Bonard (Pháp) và Đại tá Palanca (Y-pha-nho). Sau khi ký hòa ước ông và Phó sứ Lâm Duy Hiệp bị triều đình quở trách và xuống án cách lưu, Phan Thanh Giản làm Tổng đốc Vĩnh Long, còn Lâm Duy Tiếp làm Tuần phủ Khánh Thuận.

Năm 1863, ông được cử làm Như Tây chánh sứ, Phó sứ Phạm Phú Thứ, Bồi sứ Nguy Khắc Đản, cùng với 60 tùy viên ( 1 ) đi với các quan Pháp và Y-pha-nho, trong phái đoàn Pháp còn có Trương Vĩnh Ký và Tôn Thọ Tường. Nhiệm vụ của Phái bộ Việt Nam là sang Pháp yết kiến Pháp hoàng để xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông, Phái bộ được Pháp hoàng là Napoléon đệ tam tiếp kiến, nhưng việc thương lượng Pháp hoàng còn hẹn sẽ bàn lại sau. Phái bộ cũng được Nữ hoàng Tây Ban Nha Isabelle tiếp kiến.

Trong thời gian đi sứ ông có sáng tác hai bài thơ Nôm “Đi sứ sang Pháp” như sau :

I
Chín từng lồng lộng giữa trời thinh,
Phụng chỉ ra đi buổi sứ trình.
Lo nỗi nước kia cơn phiến biến,
Thương bề dân nọ cuộc giao chinh.
Ngàn trùng biển cả sang Tây địa,
Muôn dặm đàng xa thẳng đế kinh.
Mấy bước sang qua cùng Pháp quốc,
Rước đưa mừng rỡ việc hòa ninh.

II
Chút nghĩa vương mang phải gắng đi,
Tang bồng đành rõ chí nam nhi.
Thuyền ngo phơi phới giăng hòn bạc,
Khói đá phăng phăng lướt tích ti.
La Hán giăng tay hào khách đến,
Nước lũ non sông ngóng lúc về.
Tên cỏ cung dâu là chí trẻ,
Danh mà chi đó lợi mà chi?

Tôn Thọ Tường có họa vận :

Múa gươm quăng chén cất mà đi,
Bịn rịn đâu màng thói nữ nhi.
Mấy khói một màu thuyền thoát thoát,
Biển trời muôn dặm núi ti ti.
Phương xa xe ngựa ngừa khi đến,
Nước lũ non sông ngóng lúc về.
Tên cỏ cung dâu là chí trẻ,
Danh mà chi đó lợi mà chi.

Thời gian đi sứ ông có sáng tácSứ trình nhật ký. Đi sứ về năm 1864, sau khi tâu bày mọi lẽ, ông có trình vua Tự Đức biết sự văn minh của Tây phương, trong đó có câu:

Bá ban xảo kể tề thiên địa,
Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền.

Nghĩa là :
Trăm bề tinh xảo bằng trời đất,
chỉ có việc sống chết là quyền của tạo hóa mà thôi.

Theo đó ông xin vua thật tình giao hảo với người Pháp, giao thiệp với các nước và buôn bán với họ, cho người đi du học sửa đổi việc nước như Pháp để cho quốc gia trở nên hùng mạnh, nhưng vua không y tấu, triều đình cũng không chịu tin lời ông để sửa đổi nên ông có làm bài “Tự thán” :

Từ ngày đi sứ đến Tây kinh,
Thấy việc Âu Châu phải giựt mình.
Kêu tỉnh đồng bang mau kịp bước,
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin.

Năm này, ông được cử làm Hộ bộ Thượng thư, rồi được cử làm Chánh sứ toàn quyền đại thần, để nghị hòa với toàn quyền Auberet vừa ở Pháp sang, nhưng cuộc thương nghị không mang lại kết quả.

Năm 1865, có sớ của Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển về tình hình ba tỉnh miền Tây, ông được cử làm Kinh lược sứ vào trấn nhậm tại tỉnh Vĩnh Long. Đến Vĩnh Long, ông ra cáo thị hiểu dụ dân chúng lo làm ăn, học tập và ông lo dời mộ Võ Trường Toản về quê ông.

Năm Tự Đức thứ 20 (1867), nửa đêm 19 tháng 5, Đô đốc De Lagrandière đem binh thuyền từ Định Tường đến Vĩnh Long, đưa tối hậu thơ cho Phan Thanh Giản bảo phải nhường ba tỉnh miền Tây, Tổng đốc Trương Văn Uyển cùng các quan võ xin chống cự, còn ông cho biết, ông có trách nhiệm giữ thành, khi giặc đến phải liều thân đến thác để giữ thành thì rạng danh, nhưng đem sức đọ nhau thì không bằng họ, rồi cũng thua mà còn làm cho dân chịu nạn đao binh. Nên ông chọn con đường thương thuyết.

Ông cùng với Án sát Võ Đoãn Thanh, xuống tàu L’Ondine thương thuyết với Lagrandière. De Lagrandière buộc ông phải nhường ba tỉnh miền Tây cho Pháp và phải giao tỉnh Vĩnh Long nội trong 2 tiếng đồng hồ. Trước tình hình đó, Phan Thanh Giản bằng lòng và yêu cầu đừng nhiễu hại dân lành, rồi ông trở vào thành viết văn thư gửi cho Tổng đốc An Hà Nguyễn Hữu Cơ để giao thành An Giang và Hà Tiên cho Pháp.

Thế là tỉnh Vĩnh Long mất vào sáng ngày 20/6/1867 (20 tháng 5 Đinh Mão). Còn An Giang mất đêm 21 rạng 22 và Hà Tiên mất sáng sớm ngày 24. các quan lại hai tỉnh sau bị quân Pháp bắt xuống tàu chở về Vĩnh Long. Rồi sau đó quan lại ba tỉnh miền Tây được Pháp đưa ra Bình Thuận giao trả lại cho triều đình Huế.

Sau khi thất thủ, ông xin với Lagrandière cho lấy lại tiền lương cùng binh khí trả lại cho triều đình Huế và ông làm một tờ sớ, kèm theo triều phục, ấn triện với 23 đạo sắc phong gửi về triều đình. Rồi ông tuyệt thực, trong thời gian này, ông có dặn các người con, sau khi ông chết thì đem linh cửu về an táng tại làng Bảo Thạnh, còn tấm triệu thì ghi “Đại nam hải nhai lão thơ sanh tánh Phan chi cữu” ( 2 )

Dặn ba người con là Phan Hương, Phan Liêm và Phan Tôn gìn giữ mấy bộ sách của ông để lại, lo học hành làm ăn, đừng nhận quan tước của người Pháp, phải hòa thuận, thương mến quê hương và họ hàng thân tộc. Trong thời gian này ông có làm bài “Việc nước không thành”

Trời thời đất lợi lại người hòa,
Há dễ ngồi co phải nói ra.
Lâm trả ơn vua đền nợ nước,
Đành cam gánh nặng ruổi đường xa.
Lên ghềnh xuống thác thương con trẻ,
Vượt biển trèo non quản phận già.
Cũng tưởng một lời an bốn cõi,
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba.

Sau khi tuyệt thực 17 ngày mà không chết, ông liền hòa một chén thuốc độc hướng về Bắc lạy vọng 5 lạy, rồi ngồi xếp bằng uống cạn chén thuốc độc, để rồi từ giã cõi đời giữa đêm mồng 5 tháng 7 năm Bính Mão (4/8/1867) thọ 62 tuổi.


Khi đem linh cửu Phan Thanh Giản về làng Bảo Thạnh thì thân bằng cố hữu cũng như dân chúng lục tỉnh đều có đến đưa và chịu tang. Các quan trong ba tỉnh miền Tây đã bị Pháp bắt chở ra Huế, chỉ trừ có Phạm Viết Chánh bị bệnh nên còn ở lại, mọi người thương tiếc một vị lão thần trung hiếu lưỡng toàn. Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ ái quốc của chúng ta khi ấy đang sống tại chợ Ba Tri, có làm một bài thơ :”Điếu Phan Thanh Giản”:

Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây trắng cõi Ngao châu : ( 4 )
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tỉnh cang thường một gánh thâu.
Trạm Bắc ngày trông tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.
Minh tinh chín chữ ( 5 ) lòng son tạc,
Trời đất từ đây mịt gió thu.

Phạm Viết Chánh, Án sát tỉnh An giang có đôi liễn điếu :

Sổ hàng di biểu lưu thiên địa,
Nhất phiến đan tâm phó sử thư.

Nghĩa :
Đôi hàng biểu để lòa trời đất,
Một tấm lòng son tạc sử xanh.

Và sợ người đời sau không hiểu cho nỗi lòng của Phan Thanh Giản nên Phạm Viết Chánh lại có cảm tác một bài thơ để làm sáng tỏ cuộc đời và hành động cuối cùng của bậc công thần trong giai đoạn đen tối của lịch sử :

ĐIẾU PHAN THANH GIẢN

Phan công tiết nghĩa sánh cao dày,
Thương bấy vì đâu khiến chẳng may.
Hết dạ giúp vua trời đất biết,
Nát lòng vì nước quỉ thần hay.
Tuyệt lương một tháng rau xanh mặt,
Bị cách ba phen lửa đỏ mày.
Chỉn sợ sử thần biên chẳng ráo,
Tấm lòng ấm ức phải thày lay.

Triều đình Huế sau khi hay tin mất ba tỉnh miền Tây, vẫn chưa thức thời đem ông ra đình nghị, cho rằng việc mất sáu tỉnh miền Nam là do lỗi của ông, nên tước hết chức tước và đục bỏ tên ông nơi bia Tiến sĩ.

Cho đến Đồng Khánh nguyên niên (1986), đem ra nghị án và khôi phục nguyên chức cho ông là Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Binh bộ Thượng Thư, Nam kỳ kinh lược Chánh sứ toàn quyền đại thần và cho chạm lại tên ông trên bia Tiến sĩ như cũ.

Nhưng người đời vẫn nghĩ đến sứ mệnh khó khăn và tấm gương cao cả của ông, nên có bài “Nhớ Phan Thanh Giản” sau đây :

Học rộng tài cao chẳng gặp thời,
Cho nên đành chịu bó tay thôi.
Gọi hồn non nước công đã uổng,
Thấy cảnh tang thương ứa lệ rơi.
Liều thuốc tiêu hồn rồi một kiếp,
Tấm lòng ái quốc giải muôn đời.
Lương Khê thi tập còn lưu đó,
Đọc đến ai không cảm nhớ người.
Vô danh.

Và các bài vịnh sau đây :

Tiến sĩ Nam kỳ xướng trước công.
Khôi tinh tỏ rạng khắp non sông.
Ba trào phò chúa không nguôi dạ,
Một cõi chăn dân chẳng mõi lòng.
Gặp lúc trời Nam cơn thế biến,
Tách miền biển Việt nghị hòa xong.
Lòng người đã muốn trời không vậy,
Thà thác mình đây đặng chữ trung.


*

Vận nước trong khi cuộc đổi đời,
Ra vai gánh vác một phương trời.
Thương vua phải chịu lòng đau đớn,
Vì nước cam đành lụy nhỏ rơi.
Nghĩa nặng chẳng từ cơn yếu đuối,
Thân già bao quản chốn đua bơi,
Vài lời dâng sớ liều mình thác,
Tiếng để về sau tiếc mấy đời

*.

Nằng nằng giữ vẹn tấm lòng ngay,
Nặng nhẹ không từ khổ nhọc thay.
Vì nước thương dân trời đất biết,
Thảo cha ngay chúa quỉ thần hay.
Tây kinh phụng sứ cơn già yếu,
Nam trấn cầm cờ lúc trở gay.
Biết trước chẳng cho dân chịu thác,
Một mình chịu trọn nghĩa tôi đây.
Vô danh.


Văn nghiệp Phan Thanh Giản gồm có :

-Du kinh (1826)
-Toái cầm thảo (1829)
-Kim đài thi tập (1832)
-Minh Mạng chánh yếu (1837)
-Việt sử thông giám

Và một ít thơ Nôm như :
-Ký nội.
-Gần sáng.
-Đi sứ sang Pháp.
-Việc nước không thành.

Sau đây là bài biểu của Nguyễn Thông, (bài này ghi ở sau bài biểu của Võ Trường Toản), ghi về cuộc đời và đức độ của Phan Thanh Giản

“Từ Lương Khê Phan tiên sinh tới cụ Sùng Đức Võ phu tử khoảng thời gian không mấy xa.

Sở học của Phan tiên sinh lấy chữ “Thành” làm chủ đích, trước hết lấy việc trị tính tình làm phương thiết thật.

Thời gian gần đây, tuy các nhà nho chưa xem xét tới sở học ấy, nhưng lời giảng luận xưa kia, câu biên chép còn xót lại của cụ Sùng Đức vẫn còn tiêm nhiễm trịu trịu trong lòng. Sở học của Sùng Đức thật là thiết thật, thâm uyên, rất hợp với tư tưởng thánh hiền xưa vậy.

Lương Khê tiên sinh soạn bài biểu đề mộ cụ Sùng Đức ba tháng trước ngày tuẩn tiết. Đương hồi thiên hạ gian nan loạn lạc, tiên sinh lo việc tôn sùng đức nghiệp cụ Võ phu tử. Nhờ bài biểu ấy mà đạo cụ Võ được suy tôn thêm và ý nghĩa của thánh kinh càng thêm sáng tỏ.

Người cầu học trong đời, một khi thể nhận lời của Lương Khê tiên sinh sẽ chăm lo việc chí tình để đi đến chỗ sáng suốt, tinh thành kín đáo của đạo học. Chừng ấy, người không còn lầm tục học, dị đoan dời đổi lòng người, trái lại, được nhiều điều bổ ích cho tâm thần người lắm.
Ở đời việc thắng bại, lợi hại, con người đều có mạng, chớ cái mạch đạo vẫn trường tồn với vũ trụ.

Kìa người xưa có người đương thời vẫn khuất thân mà đạo của họ vẫn lưu hành hậu thế, giữa triều đình thì thấp thỏi, không danh vị, không được trọng vọng, thế mà tự chốn nhà hành cửa lá danh tiết được trọng vì như hàng “thi chúc” (thần thi, thần chúc), lâu đời càng sánh tỏ lời khen.

Nay tiên sinh đã ra người thiên cổ mà bậc đồng đạo hoặc đi xa, hoặc quá vãng, nên tôi kính cẩn biên lại đây để duy trì việc người trước, hầu sau chư quân tử có chỗ tra cứu được.”


Tự Đức năm Nhâm thìn (1868), trước thanh minh hai ngày, kẻ hậu học kính biên.

Nguyễn Thông


Mộ Phan Thanh Giản hiện ở tại làng Bảo thạnh, quận Ba tri tỉnh Kiến hòa.Theo ông Nguyễn Huy Oanh ghi trong : Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam.

Ở trước có bức bình phong đấp nổi sen le, hai bên có hai câu đối:
Giang sơn chung tú khí,
Âu Á mộ oai linh.

Mặt trong (mặt sau) đắp tùng lộc với hai câu đối :
Tiết nghĩa lưu thiên địa,
Tinh thần quán Đẩu Ngưu.

Kế đó có mộ bia lớn khắc :
Nam kì hải nhai lão thơ sanh Phan công chi mộ.

Kế đó là tấm bia nhỏ ghi :
Đại Nam Hiệp biện Đại học sĩ toàn quyền đại thần Phan công chi mộ

Cuối cùng sau nấm mộ hình quy bối trên vách có hai chữ 追 思 (truy tư)và hai bên có đôi liễn :

Xuân lộ thu sương cảm,
Sơn hoa dã thảo bi.


Cho đến nay, ai ở vào hoàn cảnh Phan Thanh Giản mới thấy rằng khó xử, người có trách nhiệm giữ thành, thành bị nguy khốn phải xả thân mà lo chống giữ, nhưng khi lượng sức mình, ông đã tỏ ra một bực tài trí và hết dạ thương dân, bởi vì sự chống trả chỉ làm cho dân chúng bị nạn đạo binh rồi vẫn nước mất nhà tan, nên ông chọn con đường thương thuyết, thế rồi Pháp đã thực hiện đúng cái mộng xâm lăng của mình.

Từ kinh nghiệm đó, người Pháp đã đi dần đến cuộc đô hộ cả Việt Nam. Ông giải quyết việc cứu sinh mạng nhân dân miền Nam chỉ là sự giải quyết nhất thời, bởi vì suốt 92 năm kể từ sau Hòa ước Nhâm Tuất (1862), dân miền Nam cũng như dân tộc Việt Nam đã theo Cần vương, các phong trào kháng chiến, bao nhiêu cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học… với hàng nghìn chiến sĩ vô danh, đã phơi thây ở chiến địa hay bị tù đày gian lao khổ sở, ở những ngục tù từ trong cho đến ngoài nước, họ đã hy sinh thân mạng để dành lại độc lập cho nước Việt Nam, mà khi để mất độc lập Phan Thanh Giản chuộc tội mình bằng cả sinh mạng của ông.

Ông đã chọn, một cái chết quả cảm theo trọng trách của ông như là một vị tướng, thành mất thì tướng phải mất theo thành, ông đã làm tròn trách nhiệm của mình nên đã dùng chén thuốc độc quyên sinh sau 17 ngày tuyệt thực và sau 45 ngày thành mất. Đương thời nhà thơ ái quốc Nguyễn Đình Chiểu đã soi thấu tấm lòng một bậc trung thần nên đã khóc cho ông :

Trạm Bắc ngày trông tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.


=========

NHỮNG NGÔI TRƯỜNG MANG TÊN CỤ PHAN THANH GIẢN




1- Trường Trung Học PHAN THANH GIẢN, CầnThơ


Trường Trung học Phan Thanh Giản ở Cần Thơ
(ảnh trước 1975)



Tượng cụ Phan ở trường Trung học Tổng hợp Phan Thanh Giản (1974), Tượng đã bị đập phá sau 30-4-1975




PHAN THANH GIẢN MỘT NHÂN CÁCH LỚN và BI KỊCH CUỘC ĐỜI

Lê Đức Cửu

Ngay khi còn niên thiếu, được đọc lịch sử nước nhà, tôi rất tôn kính và ngưỡng mộ cụ Phan Thanh Giản. Lúc đó tôi chưa biết nhiều về sự nghiệp của cụ, nhưng phẩm cách rạng ngời và hoàn cảnh bi thương của cụ khiến tôi cảm kích xúc động vô cùng.

Sau này, có lẽ là do cơ duyên, tôi được bổ nhiệm về dạy tại trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, một ngôi trường nổi tiếng của miền Nam và cũng là ngôi trường đầu tiên trong cuộc đời dạy học của tôi với biết bao kỷ niệm êm đềm :

“Trăng phương Nam
Sáng tỏ khắp bờ Cửu Long
Nước chảy con thuyền xuôi dòng
Vẳng tiếng khoan hò ấm lòng”
Anh Hoa ( Trăng phương Nam)

Vì thế, cách đây hơn 30 năm, có dịp về thăm Bảo Thạnh (Bến Tre), quê hương của cụ Phan, tôi không khỏi se lòng khi trông thấy khu di tích lăng mộ cụ có vẻ hoang sơ và đền thờ xuống cấp hư nát nặng nề. Và hôm nay, dù hiểu biết còn hạn chế, tôi cũng muốn được trình bày một số suy nghĩ và tấm chân tình của tôi về nhân vật lịch sử vĩ đại này.

1. Cụ Phan thuở thiếu thời nhà nghèo nhưng là người con rất hiếu thảo và hiếu học, siêng năng cần mẩn. Vì bị vu cáo, cha là Phan Thanh Ngạn bị tù oan, Phan Thanh Giản đã xin chịu tù thế cha. Thấy cụ là người con hiếu, quan Hiệp Trấn Vĩnh Long đã an ủi và hết lòng giúp đỡ. Hàng ngày, cụ vào khám thăm cha, làm những việc cực nhọc của cha phải làm và vẫn chịu khó chuyên cần học tập.

Siêng năng cần mẫn lại thông minh hơn người, Phan Thanh Giản đã vượt qua những khó khăn của cuộc sống và đỗ Tiến sĩ năm 1826 và là vị Tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ lục tỉnh. Phẩm giá con người và sự thành đạt vẻ vang khiến nhân dân Nam Kỳ quý mến, ngưỡng mộ và rất tự hào về người con của quê hương mình. Đó là những phẩm chất tốt đẹp thời tuổi trẻ của cụ và vẫn còn giữ nguyên giá trị trong việc giáo dục trẻ hôm nay cũng như ngày mai.

Quốc triều hương khoa lục chép : “Ông là người đổ đại khoa đầu tiên của Nam Kỳ, là người có học vấn và đức hạnh, đứng đầu đất Nam trung”.

2. Ra làm quan, trải thờ ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, cụ nổi tiếng cương trực, thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước.
• Gặp việc cần nói thì nói, không sợ mất chức. Đại Nam Chánh Biên chép về Phan Thanh Giản : “Ngộ sự cảm ngôn” nghĩa là “gặp việc dám nói”. Năm 1836, vua Minh Mạng muốn ngự giá tuần thú Quảng Nam và mấy tỉnh phía Nam Ngũ Hành Sơn, cụ đang làm Bố Chánh tỉnh này, dâng sớ can ngăn, tâu rằng : “Hạ dân nghe ngự giá sắp vào đều có lòng vui. Nhưng bốn tỉnh trời hạn, đồng khô lúa chết, gạo mắc… đã biết vua ngự thì… tất nhiên phải bắt dân phu với lính… như thế dân phải bỏ việc tư lo việc công… xin bệ hạ đình chỉ ngự giá, đợi đến khi trời đất khí hòa, mùa được dân no. Xin bệ hạ thẩm xét.”

Thế là vì thương dân và trung trực, cụ bị giáng xuống làm lục phẩm thuộc viên, lo việc quét dọn bàn ghế tại công đường tỉnh Quảng Nam, nhưng cũng chính vì thế mà danh tiếng càng lẫy lừng, dân gian càng kính phục.

Năm Tự Đức thứ năm (1852), cụ cùng với Nguyễn Tri Phương dâng sớ điều trần 8 việc chính trị như : xin vua cẩn thận các việc chơi bời, xin đừng ham coi hát xướng, xin xa tránh những kẻ thấp hèn, xin chuộng điều tiết kiệm, bớt việc lãng phí xa hoa mà thương xót cho dân, giữ gìn đất nước…

Mấy lời tâu ấy thật có phật ý thánh hoàng, song vua Tự Đức cũng khen là có lòng ngay vua, thương nước, lại ban thưởng cho một tấm kim khánh, có khắc 4 chữ “Liêm, bình, cần, cán”.

• Làm quan đại thần của triều đình mà phu nhân ở nhà phải ăn ở cần kiệm, trồng bông dệt vải mà mặc, cấy lúa tỉa rau mà ăn; nhà thờ tổ tiên thì bằng cột mắm, phên tre và đến khi chết thì ở trong một túp lều tranh. Vua Tự Đức biết cụ làm quan to mà vẫn nghèo nên thường hoặc tăng bổng hoặc thưởng riêng.

Dưới triều Minh Mệnh, khi đi sứ Tàu về, cụ đem những tặng phẩm của vua quan Tàu tặng dâng lên vua xem, món nào cho phép lấy cụ mới lấy.

3. Học rộng tài cao, làm quan to nhưng cụ lại là người cực kỳ khiêm tốn :

• Khi làm Kinh Lược Sứ Nam Kỳ, dù không phải là học trò cụ Võ Trường Toản, nhưng cụ Phan vẫn coi cụ Võ như bậc sư bá và hết lòng tôn kính. Khi mất 3 tỉnh miền Đông, vì không muốn hài cốt của bậc lương sư nằm trên đất giặc, cụ đã cho di dời từ làng Hòa Hưng (Gia Định) về làng Bảo Thạnh (Bến Tre). Và năm 1867, đích thân cụ Phan soạn bài văn bia. Cuối bài văn bia này, cụ không dám ghi học vị Tiến sĩ và chức tước đại thần của mình, mà chỉ kính cẩn khiêm cung viết : “Vãn sinh Phan Thanh Giản huân mộc cẩn minh” nghĩa là “người học trò lớp sau là Phan Thanh Giản, trước tắm gội, kính cẩn ghi bài minh”. Điều đó cho thấy đức tính cực kỳ khiêm tốn cũng như tấm lòng vô cùng tôn kính cụ Võ của quan Kinh Lược Sứ Nam Kỳ.

• Trước khi nhắm mắt lìa đời, cụ dặn lại con cháu bỏ hết chức tước và học vị, mà chỉ ghi trên minh tinh chín chữ : “Hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cữu” nghĩa là : “ Quan tài của người học trò già họ Phan ở nơi góc biển”.

Thi đỗ Tiến sĩ, mà là vị tiến sĩ đầu tiên của Nam kỳ, làm quan Hiệp Biện Đại Học Sĩ, Kinh Lược Đại Thần của triều đình mà khi mất chỉ ghi là “học trò già nơi góc biển”. Đức tính khiêm tốn của cụ thật là hiếm có ở đời.

• Thực hiện đúng ý nguyện của người xưa, hiện nay trên mộ bia cũng chỉ thấy ghi : “Nam Kỳ hải nhai lão thư sinh Phan công chi mộ” nghĩa là “Mộ của người học trò già Phan công ở nơi ven biển Nam kỳ”

4. Cuối đời cụ, năm 1867, thực dân Pháp quyết chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Tình hình đất nước cực kỳ khó khăn bi thảm; chiến hòa, tiến thoái lưỡng nan :

“ Mệnh trời thế, đành không sao cải mệnh
Thấu cơ trời thêm nát dạ trượng phu”

“ Gặp thời thế thế thời phải thế” , cụ đành để mất ba tỉnh miền Tây Nam kỳ : Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên rồi cụ nhịn ăn , uống thuốc độc tự tử để đền ơn vua nợ nước. Đó là bi kịch của cuộc đời cụ và cũng là bi kịch của lịch sử.

• Cụ đã nêu cao tấm gương khí tiết rạng ngời, như Võ Tánh và Ngô Tùng Châu năm xưa tử tiết ở thành Bình Định (1801 ), và sau này như Tổng Đốc Nguyễn Tri Phương rồi Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết khi thất thủ Hà Thành (1873 và 1882) :

“ Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết, ngọn quang minh hun mát tấm trung can.
Chỉ non sông giã với cô thành, chén tân khổ nhấp ngon mùi chính khí”
( Văn tế Phò mã Chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ Thượng thư Ngô Tùng Châu )



“ Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa.
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên”
( Câu đối ở đền “ Trung Liệt” thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu trên gò Đống Đa)

Nghĩa là :

“ Kìa thành quách, kìa non sông, trăm trận phong trần còn thước đất.
Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh”

• Người xưa có câu :

“ Khảng khái cần vương dị,
Thung dung tựu nghĩa nan”

Nghĩa là :

Hăng hái giúp vua (thì) dễ
Thung dung đạt việc nghĩa (thì) khó”

Thật ra khảng khái “cần vương”, xông pha xả thân nơi trận tiền cũng là điều khó và rất đáng khâm phục, nhưng còn có sự hỗ trợ từ bên ngoài và của nhiều người, còn như “ thung dung tựu nghĩa” là một cuộc chiến nội tâm, một mình một bóng nên càng khó khăn và đáng trân trọng hơn chăng, đúng như lời dạy của cổ nhân : "Thắng một vạn quân giặc không bằng tự thắng lấy mình".

• Cách hành xử cao đẹp này vẫn còn giữ nguyên giá trị và mang tính thời sự nóng bỏng trong thời đại ngày nay.

5. Như thế, cụ Phan Thanh Giản không phải là người tham sinh úy tử, mãi quốc cầu vinh. Nhưng năm 1868, vua Tự Đức và triều đình đổ hết tội lỗi cho cụ về việc để mất Lục Tỉnh Nam Kỳ nên xử án “ trảm hậu”, truy đoạt chức hàm và đục bỏ tên ở bia tiến sĩ. Nhưng 18 năm sau, vua Đồng Khánh lại khai phục nguyên hàm, khôi phục phẩm hàm chức vụ cũ và cho khắc lại tên cụ ở trên bia, đồng thời hết lời ca ngợi công đức của cụ và bày tỏ tấm lòng tiếc thương vô hạn :

“ Tuyển tập Lương Khê thật là tuyệt diệu
Danh tiếng ngươi còn truyền tụng ở Quỳnh uyển
Phẩm vọng ngươi cao như núi Thái sơn, rộng lớn khắp ba triều
Văn chương ngươi như mây bay nước chảy, được xưng tụng cao nhất một đời…
Than ôi, xem bản văn cất ở chốn Thanh Hiên, bùi ngùi nhớ lại phong cách ngươi khi xưa.
Theo dõi cuộc đời thanh bạch của ngươi khi làm việc tại Hoàng Các, hận rằng chẳng đặng sống đồng thời”
( Khai phục Hiệp tá Đại học sĩ Phan Thanh Giản cáo văn)

Cụ cũng được phong thần hai lần: lần thứ nhứt sắc phong thần ở làng Tương Bình Hiệp, tỉnh Thủ Dầu Một của vua Khải Định năm 1924 và lần thứ hai ở thôn Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long của vua Bảo Đại năm 1933.

6. Ngày nay, sau một thời gian khá dài bị lên án nặng nề, cuối cùng, qua nhiều cuộc hội thảo và tranh luận, tất cả cũng đã đi đến nhất trí: “ Không nên và không thể gán cho ông cái tội ‘bán nước’ hay ‘ phản bội tổ quốc’. Đó là sự quy kết khá nặng nề, không có căn cứ, vừa không đúng với hành động và động cơ của ông, vừa trái với tấm lòng ngưỡng mộ và kính mến mà nhân dân, quê hương vẫn dành cho ông.” ( Phan Huy Lê- Phan Thanh Giản: con người, sự nghiệp và bi kịch lịch sử)

Khu di tích lăng mộ và đền thờ cụ hiện nay cũng được trùng tu, tôn tạo khang trang và một trường Trung học phổ thông ở quê hương cụ được vinh dự mang hiệu danh Phan Thanh Giản.

Thật rất đáng mừng và đó chính là sự công minh và công bình của lịch sử muôn đời đối với một con người tài năng, khiêm tốn, hiếu thảo, cương trực, tiết tháo, thanh liêm và hết lòng vì dân vì nước.

Và xin được mượn bài thơ “Điếu Phan Thanh Giản” của cụ Nguyễn Đình Chiểu để kết thúc ở đây :

“Non nước tan tành, hệ bởi đâu
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao Châu
Ba triều công cán, vài hàng sớ
Sáu tỉnh cương thường, một gánh thâu
Ải Bắc ngày trông tin nhạn vắng
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Minh tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ đây mặc gió thâu”

Tháng 3/2012
Lê Đức Cửu
Cựu giáo sư Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ và Trịnh Hoài Đức Bình Dương




2- Trường Nam Tiểu Học Phan Thanh Giản (Trường Nam Tỉnh Lỵ Bến Tre Kiến Hòa)










3- Trường Trung Học Tư Thục Phan Thanh Giản Đà Nẵng








4- Trường Trung Học Phổ Thông PHAN THANH GIẢN

Huyện BA TRI, Tỉnh BẾN TRE


(Địa điểm mới, nối tiếp của Trường Trung Học Ba Tri)












Tượng Đại học sĩ Phan Thanh Giản ... PDF Print E-mail
Written by Huỳnh Long Vân
Saturday, 12 September 2009 10:33

Tượng Đại học sĩ Phan Thanh Giản và
ngôi trường trung học miền Nam
Tiến sĩ Huỳnh Long Vân



Mỗi năm gần đến tháng tư, những hình ảnh và cảm giác kinh hoàng của ngày miền Nam sụp đổ trở lại trong trí óc chúng ta. Thảm hoạ chung của đất nước kéo theo đổ vỡ và mất mát.
Sau ngày 30/04/1975, quân cán chánh từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị cầm tù; tài sản của họ bị tước đoạt, nhà cửa bị cán bộ (Không dùng từ này) (CS) cưỡng chiếm. Tự do, nhân quyền, công bằng, pháp lý bỗng chốc biến dạng, nhường bước cho khống chế và bạo lực. Không chỉ kẻ chiến bại bị tù đày mà người chết cũng không được nằm yên dưới đáy mồ, các nghĩa trang bị san bằng.
“Đất nước mất, mất tất cả”
Trong khí thế hiên ngang của đoàn người thắng trận, người (Không dùng từ này) Việt Nam thuở đó trở nên ngạo mạn, chà đạp lịch sử, thoá mạ tiền nhân. Vốn bị nhồi nhét bởi giáo điều, họ cho rằng trong lịch sử dân tộc, chỉ có Hùng Vương và Hồ Chí Minh.
“Các vua Hùng dựng nước, Bác Cháu ta giữ nước” !
Và từ quan niệm sai lầm đó, các triều đại vua chúa được người CS nhìn trong màu sắc ảm đạm của những chế độ thối nát, đồng nghĩa với những gì xấu xa, đáng bị nguyền rủa. Điều này làm cho những dấu tích vật chất mà thực chất là một phần của di sản văn hóa dân tộc đã bị hủy hoại.


1. Ngày ấy tháng 5 năm 1975 . Trường trung hoc Phan Thanh Giản Cần Thơ (1)
Ước gì mắt ta được mù và tai ta được điếc

Tháng năm, tháng bắt đầu của mùa nghỉ hè, nhưng bây giờ tháng năm 1975, không còn là những bài lưu bút ngày xanh, những bịn rịn lưu luyến trong ngày chia tay nữa, mà là lệ đổ và nỗi câm lặng khủng khiếp......
Một ngày (của tháng năm 1975), hình như buổi xế trưa thì phải, chúng tôi được lệnh tập trung tại sân cờ. Ðây là lần đầu tiên, chúng tôi được lệnh tập trung. Có biến cố gì không. Có thay đổi gì trong chính sách không. Không ai có thể biết được. Rồi một viên thượng úy đứng trên bậc thềm xi măng dưới cột cờ, cầm giấy đọc. Y đọc gì. Không. Y kết tội. Lần này không phải buộc tội chúng tôi, ngụy quân, ngụy quyền, phản động, tay sai. Mà y kết tội cụ Phan Thanh Giản. Y không kêu là cụ, là ông, mà từ đầu bài đến cuối bài là chữ "tên". Tên bán nước. Tên đầu hàng. Tên có tội đối với nhân dân. Tên tự tử vì hèn nhát. Tên tiêu cực. Tôi không thể nhớ nổi bao nhiêu chữ «tên» mà y dùng. Sau đó là hai tay cảnh vệ dùng búa đập tượng. Ðập cuồng điên. Những mảnh xi măng văng ra tơi tả. Những tiếng búa khô thốc. Nhưng họ không phá hết. Họ vẫn còn chừa lại tấm thân bị thương tích bên chiếc đầu gãy lìa khỏi cổ.
Thưa cụ. Pho tượng không có đau. Dù sao nó cũng là xi măng hay thạch cao hay đá cứng. Mũ cánh chuồn cũng không phải là mũ cánh chuồn thật. Chòm râu kia cũng có lẽ không giống như chòm râu của cụ. Nhưng lòng con cháu đau. Cụ đã bay lên một cõi nào rồi, viễn du ở một tận cùng vô định rồi, đâu cần biết đến đám hậu thế cháu con. Nhưng cháu con của cụ thì đau lắm. Những nhát búa như mang theo những vết cứa lên buồng tim.
Có lẽ chúng tôi bây giờ mang tâm trạng của đứa con bị buộc phải nhìn cảnh người thân bị hành xử ngoài công cộng. Nhưng còn hơn thế nữa. Bởi vì nơi đây, không phải là thân nhân, nhưng là di sản, là lịch sử, là niềm tự hào. Kể từ nay, con cháu chúng tôi sẽ không còn được đọc trên trang sách sử về một người sĩ phu bất khuất, chọn cái chết để cứu người, và để giữ cái tiết tháo của kẽ sĩ như cụ Phan nữa.

Trong hơn 3 thập niên vừa qua, cùng với người dân trong nước, những cựu giáo sư và học sinh trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ đã nói lên nỗi bất bình về bản án sai lầm kết tội Cụ Phan Thanh Giản là người bán nước. Đặc biệt, nhân dân hai tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long mong mỏi và đòi hỏi các nhà sử học đánh giá lại thân thế và sự nghiệp của Cụ một cách khách quan và đầy đủ hơn.
Qua các cuộc hội thảo tổ chức vào thập niên 90 và đầu thế kỷ XXI những mặt hạn chế và bế tắc của cụ Phan Thanh Giản được nhận rõ; những cống hiến tích cực của ông trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp được đánh giá cao; nhân cách và phẩm chất cao quý của ông cũng được trân trọng ghi nhận.
Kết quả của các cuộc hội thảo này:
* góp phần làm sáng tỏ cuộc đời và sự nghiệp một con người mà từ khi nhắm mắt cho đến nay luôn luôn đứng trước những sự đánh giá mâu thuẫn gay gắt trong khen và chê, trong bình luận công và tội.
* là cơ sở khoa học dùng để tham khảo trong biên soạn các sách về danh nhân quê hương, về giáo dục truyền thống, về xử lý những di tích liên quan đến cụ Phan Thanh Giản: “bảo tồn và tôn tạo toàn bộ các di tích về cụ Phan”, nhằm ghi nhớ và phát huy những phẩm giá, nhân cách cao quý của một người trí thức nặng lòng yêu nước thương dân nhưng cuối đời đã lâm vào cảnh bế tắc trong một bối cảnh gian truân và đau thương của đất nước (2) .
Ngày 20/ 01/2008 Viện Sử học VN ra văn thư công nhận cụ Phan Thanh Giản là một nhân vật yêu nước, có những đóng góp xứng đáng trên nhiều mặt chính trị, ngoại giao, văn hóa và tiếp theo vào ngày 24/01/2008 Cục Di sản Văn hoá ra chỉ thị kiểm kê các di tích văn hoá liên quan đến nhân vật để trùng tu, và cho phép Tỉnh Bến Tre dựng tượng cụ Phan Thanh Giản trong thành phố, một hình thức để tôn vinh Ông.
Tin tức này khiến một số bạn bè ở Hoa Kỳ vô cùng mừng rỡ, nhưng sau đó vài ngày trở nên bối rối trước việc Bến Tre đổi tên trường Trung Học Phổ Thông Ba Tri thành trường THPT Phan Thanh Giản vào đầu niên khóa 2008-2009 và Cần Thơ không được đề cập đến trong công văn của Cục Di sản Văn hoá; từ đó đâm ra nghi ngờ có phải đây là một “trick” nhà cầm quyền VN dùng để bóp chết nguyện vọng chúng ta. Phần tôi ngồi đứng không yên; đâu là câu giải đáp và ai sẽ đứng ra tìm hiểu chuyện này?
Cục Di sản Văn hoá, số 51-53 Đường Ngô Quyền, Quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.
Một liều, ba bảy cũng liều; tôi nghĩ thầm: “ Trước kia mình đã gõ cửa nhiều nơi (3) thì hai ông Tiến sĩ Cục Trưởng và Cục Phó Cục Di sản Văn hoá không lẽ từ chối tiếp mình về vấn đề một nhân vật lịch sử vừa được cho phép dựng tượng để tôn vinh” ?

Lên mạng www.Google.com.au truy tầm “Việt Nam: National Cultural Heritage Department”, tìm được số điện thoại bàn và cầm tay của Ông Cục Trưởng TS Đặng Văn Bài và Cục Phó TS Nguyễn Quốc Hùng. Tôi liền điện thoại và trao đổi trực tiếp với hai vị này, bày tỏ sự vui mừng trước tin cụ Phan Thanh Giản được lịch sử tôn vinh và các di tích văn hoá liên quan đến Ông được trùng tu, đồng thời nêu lên thắc mắc về trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ không thấy được đề cập đến trong công văn của Cục và xin hẹn gặp hai Ông vào giữa tháng 5/2008 để trình bày chi tiết hơn về nguyện vọng của mình. Cả hai Ông đồng ý tiếp chúng tôi: Huỳnh Long Vân, Huỳnh Thị Kim Chung và GS Nguyễn Trung Quân
(cựu Hiệu Trưởng Trường Trung học Phan Thanh Giản, Cần Thơ).

Trong chuyến về VN vào tháng 5/2008, với sự hiện diện của GS Nguyễn Trung Quân, cá nhân tôi, một lần nữa, đã trình bày chi tiết với nhiều giới chức hữu trách ở trung ương và địa phương, nguyện vọng phục hồi danh xưng Phan Thanh Giản cho trường cũ. Các cuộc tiếp xúc đã diễn ra trong bầu không khí thẳng thắn, cởi mở và tương kính. Sau đó vào chiều ngày 28/05/2008, Kim Chung và tôi rời Sài Gòn trở về Sydney với ý định sẽ quay lại VN vào tháng 08/2008 dự lễ khánh tượng Đại học sĩ Phan Thanh Giản ở Vĩnh Long, nhân ngày giỗ thứ 141 của Cụ. Tuy nhiên sau đó, vì quá bận rộn, nên tôi đề nghị ban tồ chức mời các cựu giáo sư và học sinh Lê Minh Thuận, Lê Văn Quới, Quách Thị Trang, La Phú Xương, Huỳnh Phước Duyên, Hồ Trung Thành, tham dự lễ an vị tượng cụ Phan ở Văn Thánh Miếu, vào ngày 05/08/2008.

Vào cuối năm 2008, được thông báo Bến Tre sẽ dựng tượng Phan Thanh Giản ở trường Trung học Phan Thanh Giản Ba Tri (4), tôi quyết định trở về VN một lần nữa để tham dự ngày lễ an vị tượng Đại học sĩ, vì xét đây là một cơ hội thuận tiện, một công hai việc tiếp tục hâm nóng yêu cầu của mình. Buổi lễ thoạt đầu được dự định tổ chức vào ngày 05/04/2009, rồi dời lại ngày 10, xong đến ngày 15 và sau cùng là 18/04/2009 khiến chúng tôi phải thay đổi vé may bay nhiều lần.

Trong nhiều tháng đầu năm 2009, đột nhiên có nhiều bài báo đả phá việc dựng tượng cụ Phan và Hội thảo về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. Công an TP HCM nhảy vào vòng chiến với bài viết của Vũ Hạnh chủ yếu là lên án bản đề dẫn của GS Phan Huy Lê với tựa đề mang tính qui chụp "Đột phá hay chạy tội ”(5). Điều này khiến chúng tôi bối rối không ít và lo âu cho sự an toàn của mình trong chuyến về VN lần này. Tham dự buổi lễ khánh thành tượng Đại học sĩ Phan Thanh Giản mà gặp khó khăn với nhà cầm quyền VN hay bị trục xuất khi về đến phi trường thì quả là một điều đáng buồn. Tuy nhiên mối e ngại này không làm chùn chân tôi. Tôi về VN ngày 17/04/2009, cùng với “my boss” Huỳnh thị Kim Chung, cựu nữ sinh trường Phan Thanh Giản Cần Thơ.

“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi”
Xuống phi trường lúc 7.30 tối. Sắp hàng chờ làm thủ tục nhập cảnh, tôi có phần bồn chồn với cái cảm giác “lạnh xương sống, nổi da gà”; tôi đoán hai nang thượng thận nhỏ bé của mình đang làm việc nhiều hơn thường lệ và adrenaline tuôn trào vào huyết quản. Rảo mắt nhìn xung quanh không thấy bóng anh Công an nào, nên tim tôi bớt đập. Có lẽ đây là chuyến bay chót trong ngày, ít hành khách, nên không phải chờ lâu tại quày nhập cảnh ở phi cảng Tân Sơn Nhứt. Phần kiểm tra hành lý gặp một trục trặc nhỏ vì bộ máy chụp ảnh và ống kính đắt tiền của tôi mang theo, nhưng rồi mọi việc cũng êm xuôi. Anh tài xế đón chúng tôi ở phi trường tiến đến: “ Chào Thầy Cô mới về; Thầy ở Úc, xứ lạnh, về đây tháng này oi bức, Thầy dùng chiếc khăn lạnh này lau mặt”. Cầm lấy chiếc khăn với lời cám ơn và bằng một giọng nửa đùa nửa thật, tôi nói với anh tài xế: “ Chúng tôi về VN nhiều lần, vào các tháng 4 tháng 5 nóng nực, nhưng chưa khi nào toát mồ hôi hột như hôm nay”. Xe về đến khách sạn khoảng 9 giờ đêm, đến nơi tôi điện thoại báo cho ban tổ chức biết mình đã về tới Sài Gòn và hẹn gặp tại trường trung học Phan Thanh Giản Ba Tri sáng sớm hôm sau.

2. Ngày 18 tháng 4 năm 2009. Trường Trung Học Phổ Thông Phan Thanh Giản, huyện Ba Tri, Tỉnh Bến Tre



Lễ an vị tượng Đại học sĩ Phan Thanh Giản

Sáng 18/04/2009, chúng tôi rời Sài Gòn khi trời còn tối, tờ mờ sáng đến Mỹ Tho và không lâu sau đó xe chạy ngang một chiếc cầu cao vút trông giống như cầu Anzac ở Sydney; chiếc cầu được xây gối đầu lên một số cù lao, bắt ngang qua những nhánh sông lớn. Qua lớp sương mù trắng mỏng của buổi bình minh, nét đẹp tuyệt vời của sông nước vùng châu thổ đồng bằng Cửu Long hiện ra trước mắt với làng bè nuôi cá da trơn trên sông, dòng nước vàng đỏ chan chứa phù sa và nhộn nhịp nhiều ghe tàu xuôi ngược. Bên kia bờ sông là vùng đất thấp phủ kín một màu xanh của rừng dừa chen lấn với những vườn cây trái đủ loại.
- Tôi vội hỏi anh tài xế Hiệp: Có phải mình đang chạy trên cầu Rạch Miễu, và bên kia sông là xứ của Ông Đạo Dừa?
- Dạ đúng đó Thầy, mà sao Thầy biết ? bác tài hỏi lại.
Đây là đầu tiên trong cuộc đời, tôi đặt chân đến vùng đất cù lao, trải mình trên 4 nhánh sông Cửu Long, quê hương của những danh nhân văn hoá như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đình Chiểu, Sương Nguyệt Ánh, Võ Trường Toản, Phan Văn Trị........ nhưng vì trong mấy lúc gần đây, đối với tôi, Bến Tre có sức hấp dẫn lạ thường, qua chuyện phục hồi danh dự cho cụ Phan Thanh Giản. Tôi lên mạng đọc báo Bến Tre online hằng ngày, không nhằm truy tầm những “tin tức Đồng khởi ngày xưa của cán bộ (Không dùng từ này)”, nhưng để tìm nguồn cảm hứng cho việc xin lại tên trường của mình, vì Bến Tre có trường trung học Phan Thanh Giản Ba Tri, thành lập trường Đại học Phan Thanh Giản và quyết tâm dựng tượng Phan Thanh Giản. Thế rồi tôi quen dần với một số sinh hoạt khác của Bến Tre như ngày lễ hội dừa, chuyện nước mặn tràn vào các sông rạch trong thị xã và hình ảnh chiếc cầu Rạch Miễu trở nên rất quen thuộc với tôi, nhớ cả ngày 19/11/2008, chiếc cầu được đưa vào giao thông.
Sáng đi sớm không kịp dùng điểm tâm ở khách sạn, khi đến Bến Tre, bụng dạ bắt đầu bào bọt. Các quán ăn lớn chưa mở cửa nên nói anh tài xế Hiệp, ghé lại ở một quán nhỏ bên đường kiếm gì ăn lót dạ. Vào một quán cóc, trong y phục chỉnh tề dự đại lễ, khiến ông chủ quán trố mắt nhìn chúng tôi, nhưng có lẽ tôi ngạc nhiên nhiều hơn, trước ly cà phê sữa nóng kiểu chưng “cách thủy” trong chun nước ấm, cà phê sền sệt uống vô vừa ngọt, cái ngọt của sữa đặc có đường, loại sữa Ông Thọ ngày xưa, vừa xảm xảm chẳng có đâu là cái vị của càphê phin: Có thể mình đã uống bột bắp rang pha sữa Trung Quốc chứa độc chất melamine? Vì sợ cúm gà, nên gọi tô hủ tiếu thịt heo, tô hủ tiếu đem ra có thêm viên xiếu mại. Nếu giờ đây trở lại quán cũ, chắc phải kêu tô hủ tiếu thịt cày để tránh bịnh cúm lợn “ Swine Flu”. Vẫn chưa tỉnh hồn vì thực sự mình còn thiếu ly NestCafé thường ngày, sau hơn 24 giờ hành trình mệt nhọc.
Lên đường tiếp tục, xe rời thị xã Bến Tre theo tỉnh lộ 26 hướng về Ba Tri. Kinh rạch dọc hai bên đường mọc đầy dừa nước; mấy tháng nay miệt mài trong một số bài khảo cứu về thuỷ thổ đồng bằng Cửu Long, tôi đoán đây là khu nước lợ, vùng đất bị nước biển xâm nhập. Qua khỏi địa phận huyện Giồng Trôm, xe tiếp tục lăn bánh, xuyên qua những cánh đồng lúa trải dài xen kẽ với những vườn dừa, vườn măng cụt, sầu riêng, sơ ri trồng trên những vạt đất giồng cao ráo, do phù sa của hai con sông Ba Lai và Hàm Luông bồi đắp nên. Sáng thứ bảy, lớp học vẫn mở cửa và các em học sinh trong đồng phục, đeo khăn choàn nối tiếp nhau đạp xe đến trường. Hình ảnh những học sinh nghèo, da sạm nắng, trông thiếu dinh dưỡng, chợ búa vùng quê không mấy sum sê, nhà cửa đơn sơ giữa rừng dừa bạt ngàn cho thấy Ba Tri, Bến Tre chưa mấy sung túc so với một số nơi của các tỉnh lớn khác như Cần Thơ, Long Xuyên, Mỹ Tho,Vũng Tàu... Nhưng, phải chăng do bản chất thanh bần của người dân Ba Tri, nơi mà hơn 140 năm trước kia cụ Phan Thanh Giản từng là quan Thượng Thư của Triều đình, Kinh Lược Sứ miền Tây, nhưng khi chết đi để lại một gia tài chỉ có ngôi nhà lá ba gian vách đất!
Vào tháng 03/2009 nhà báo Nguyễn Khải Hoàn viết bài trên báo Văn Nghệ TP HCM chất vấn Bến Tre “Dựng tượng Phan Thanh Giản để dạy người ta bài học gì”(6), theo thiển ý của chúng tôi, thì mỗi một chữ Liêm của bốn đức tính Liêm, Bình, Cẩn, Cán của con người Phan Thanh Giản cũng xứng đáng là một bài học quý giá dành cho xã hội VN ngày nay.
Vào đến thị trấn Ba Tri, bác tài dừng xe nhiều lần để tìm đường đến trường Trung học Phan Thanh Giản. Hết theo đuôi cậu học sinh chạy trước mặt, quẹo phải quẹo trái nhiều lần, sau cùng nhờ anh Công an địa phương chỉ lối dẫn đến nơi tổ chức buổi lễ. Xe đỗ trước cổng trường đúng 7.00 giờ sáng, nhưng đã có một số Thầy Cô bận rộn chạy tới lui. Thoáng nhìn, biết đây là ngôi trường được xây cất cách nay không lâu, gồm 2 dãy lầu khang trang. Sau phần giới thiệu, chúng tôi được mời vào phòng họp của trường. Vài chun trà đậm giúp tôi tỉnh táo hơn. Quan khách và các giới chức thuộc Tỉnh Bến Tre và Huyện Ba Tri lần lượt đến và tỏ ra ngạc nhiên khi được biết chúng tôi về từ xứ ngoài, Sydney, Úc châu. Vốn đam mê sông nước Cửu Long, tôi hỏi quý Thầy Cô ngồi chung quanh về chuyện Bến Tre “khát nước” trong mùa khô và ảnh hưởng của đập thuỷ lợi Ba Lai trên sản xuất nông ngư nghiệp. Thầy Hiệu trưởng tò mò hỏi tôi: “Chắc Thầy là nhà khoa học về Nông nghiệp ở xứ ngoài”? Tôi vội trả lời: “Tôi là một sinh viên nghiệp dư, muốn biết chút ít về sông nước và sình bùn của châu thổ Cửu Long”. Một lúc sau phái đoàn sử học Hà Nội và Sài Gòn đến, gồm một số người trước kia từng có mặt trong các cuộc Hội thảo, Tọa đàm phục hồi danh dự cho cụ Phan Thanh Giản như nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử VN, GS Huỳnh Lứa, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử TP HCM, PGS TS Võ Xuân Đàn, Ông Nguyễn Hạnh , Phó Tổng Biên tập Tạp chí Xưa & Nay. Ngoài ra trong thành phần khách mời, tôi nhận thấy có hai người cháu đời thứ năm và thứ sáu, rất hiền hậu của cụ Phan, anh Phan Thanh Nam và chú Phan Thanh Nhàn.
Thì giờ ít oi, nên chúng tôi trao đổi ngay với các nhà sử học chuyện phục hồi, tôn tạo và bảo tồn các di tích văn hoá liên quan đến cụ Phan, trong đó có trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ và mối quan ngại về những bài viết của Cao Đức Trường (7), Đặng Trần Nguyên (8), Lê Văn Duy (9), Nguyễn Văn Thịnh (10a, 10b, 10c), Nhị Hà (11a, 11b), Trí Nhân (12), Trương Sinh (13), Vũ Hạnh (14a, 14b) v.v... lên án việc giới sử học thuộc Hội Khoa học Lịch sử VN, Viện Sử học, Cục Di sản Văn hoá và Tỉnh Bến Tre trả lại những giá trị đích thật cho vị Đại học sĩ.
Buổi lễ bắt đầu lúc 8.00 sáng, diễn tiến tốt đẹp trong khung cảnh trang nghiêm và đầy xúc động. Sau nghi lễ chào mừng quan khách là phần phát biểu của: các giới chức thuộc UBND Tỉnh Bến Tre, Huyện Ba Tri, Hiệu trưởng trường THPT Phan Thanh Giản, đại diện Hội Khoa học Lịch sử VN và Tạp chí Xưa & Nay. Tấm lụa điều phủ trên bức tượng đồng đen được bốc ra đánh dấu phần nghi lễ chánh thức an vị tượng Đại học sĩ Phan Thanh Giãn. Tượng do nhà điêu khắc Lâm Quang Nới đúc bằng đồng, nặng 300 kg, tạc chân dung cụ Phan mặc lễ phục, áo dài khăn đóng; tượng được đặt trên bụt bê tông kiên cố, toàn thể trên một khuôn viên rộng rãi, cao chín bực thềm.

Đối với người dân Ba Tri, đây là một buổi lễ vô cùng quan trọng và hiếm thấy. Tuy là dân quê tỉnh nhỏ, nhưng họ hiểu rõ đây là kết quả của cả một quá trình nhận thức của hơn 40 năm tranh luận, cho đến khi:

Sử sách phẩm bình càng chính xác,
Diễn đàn tham luận thật công khai.

với cuộc “vận động” của người xưa như cụ đồ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu:

Hết dạ giúp vua trời đất biết
Nát lòng vì nước quỷ thần hay.

cùng nhiều từng lớp xã hội trong và ngoài nước, đặc biệt là sự kiên trì của các Nhà sử học chính thống (15).

Sau buổi lễ, chúng tôi cùng phái đoàn sử học dùng buổi ăn trưa với ban tổ chức, mừng buổi lễ thành công. Trong niềm vui thắng lợi của lẽ phải và người dân miền Nam, tôi uống cạn hai cốc rượu nếp than:

* một để chia sẻ niềm vui và trân trọng các “ÔNG GIÀ BA TRI CỨNG CỰA” bất chấp khó khăn trong quá trình tôn tạo di tích cụ Phan và
* một cho chính mình có được chuyến trở về VN tràn đầy ý nghĩa.

Nhớ mãi biến cố đau lòng “NGÀY ẤY THÁNG 5 NĂM 1975”: tượng cụ Phan bị cán bộ CS đập nát giữa sân trường và sau 34 năm trong khao khát công bằng lịch sử, hôm nay “NGÀY 18 THÁNG 4 NĂM 2009” “những kẻ mất trường” như chúng tôi, hân hạnh được chứng kiến lễ an vị tượng cụ Phan giữa một sân trường trung học, nơi quê hương của Ông, tuy rằng đến nay Cần Thơ vẫn còn vắng bóng chân dung và danh xưng của người học trò già. Ngày văn hoá lịch sử này mang đến cho chúng tôi niềm sung sướng với những cảm xúc nhẹ nhàng của người lữ hành vừa trút bớt gánh hành trang: một phần của hơn 30 năm ước mơ trở thành sự thật.

Sau buổi tiệc, chúng tôi và phái đoàn sử học cùng đến xã Bảo Thạnh để kính viếng mộ và đền thờ Cụ Phan. Đây là vùng đất khô cằn, mộ của Ông rất đơn sơ phết vôi trắng và theo các người trong đoàn thì ngày trước mộ còn đạm bạc hơn. Đối diện với ngôi mộ là đền thờ được xây và khánh thành vào ngày 04/05/2004, phần lớn là với số tiền của một nhà chánh trị về hưu. Cả đoàn thấp nhan khấn vái trước mộ và trong đền thờ cụ Phan. Cũng theo lời thuật lại, thì bức tượng toàn thân hiện nay trong đền, trước 1975 được dựng trong một công viên của Tỉnh Bến Tre; sau ngày 30/04/75 bị vứt bỏ trong sình bùn, phần mặt bị mụt nát và sau này được các anh em thuộc Tạp chí Xưa & Nay, trùng tu và đem về thờ. Bên cạnh đền thờ là căn nhà xi măng nghèo nàn của chú Phan Thanh Nhàn, cất trên chiếc nền đất của gian nhà lá ba căn vách đất, nơi cụ Phan Thanh Giản uống độc dược quyên sinh 142 năm về trước.
Theo lời chú Phan Thanh Nhàn, cách đây vài tháng có phái đoàn của trường THPT Châu Văn Liêm Cần Thơ đến thăm trường Phan Thanh Giản Ba Tri và viếng mộ cụ Phan. Trước tin này, tôi cố moi trong tiềm thức xem có bao giờ trước năm 1975, trường chúng ta ở Cần Thơ tổ chức những chuyến thăm viếng mộ cụ Phan?


3. Nỗi oan rây rứt và một ước mơ chưa trọn vẹn?

Cuộc đời và sự nghiệp cụ Phan Thanh Giản vốn gắn liền với trắc trở và gian truân. Nỗi oan của gần 150 năm qua tưởng chừng đã gội sạch nhưng vào những tháng đầu năm 2009, một loạt nhiều bài viết xuất hiện trên các tạp chí Hồn Việt, Văn Nghệ với những lời lẽ thóa mạ năng nề cụ Phan, phê phán Viện trưởng Viện Sử học về công văn phục hồi danh dự cho cụ Phan và chỉ trích Hội Đồng Nhân Dân Bến Tre “Sao Tỉnh Bến Tre lại dựng tượng Phan Thanh Giản?”(13) . Tiếp đến là một vài biến chuyển âm thầm sau ngày lịch sử 18/04/2009 dựng tượng Cụ ở Ba Tri (16).
Những diễn biến trên gây xôn xao và băn khoăn không ít cho những ai yêu quý lịch sử dân tộc, tuy nhiên chúng ta hy vọng sau đợt giãi trình (17) của GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN và các nhà sử học chánh thống, những uẩn khúc lịch sử về cụ Phan sẽ một lần nữa được làm sáng tỏ và các kế hoạch trùng tu, tôn tạo những di tích văn hoá liên quan đến Cụ không bị gián đoạn.
Đối với những cựu giáo sư và học sinh trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, nguyện vọng trùng tu các di tích lịch sử liên quan đến cụ Phan không dừng lại ở Vĩnh Long và Bến Tre. Chúng tôi tha thiết kêu gọi các giới chức và cơ quan chức năng ở Cần Thơ, sớm xúc tiến buổi Toạ Đàm, như đã dự định trong năm 2008, để thảo luận các phương án trùng tu và hoàn lại danh xưng Phan Thanh Giản cho ngôi trường nay mang tên Châu Văn Liêm. ( Buổi Toạ đàm đã được tổ chức vào ngày 21/05/2009).
Bài viết, xử dụng những tài liệu từ các sách báo, tạp chí trong ngoài nước và kinh nghiệm của chính tác giả về quá trình phục hồi danh dự cụ Phan, giới thiệu hai biến cố gây xúc động không nhỏ đối với những ai biết yêu lẽ phải, tính chất trung thực của lịch sử và lòng tôn kính tiền nhân: đập phá và dựng tượng Phan Thanh Giản trong hai ngôi trường trung học ở miền Nam vào hai thời điểm khác nhau, trong thời buổi của chúng ta.
Hai hình ảnh tương phản này bắt nguồn từ:
* Thập niên 60, một số nhà sử học miền Bắc, trong vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phạm những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, máy móc, từ đó phủ nhận tất cả tư đức của cụ Phan như “đức tính liêm khiết”, “lòng yêu nước”,“ thương dân”, kết án Ông là người bán nước, dâng thành cho giặc Pháp.
* Sự qui kết không có căn cứ, quá nặng nề trên, vừa không đúng với hành động và động cơ của ông Phan Thanh Giản, vừa trái với tấm lòng ngưỡng mộ và kính mến mà xưa nay nhân dân, quê hương vẫn dành cho ông. Do những thay đổi về tư duy kinh tế vào năm 1986 dần dần được mở rộng sang lãnh vực khoa học xã hội và nhân văn, tạo điều kiện thuận lợi để một số nhà sử học chánh thống, dưới sự thúc đẩy của đa số người dân miền Nam, đánh giá và trả lại cho Cụ những giá trị đích thật về cuộc đời, sự nghiệp và lòng yêu nước thương dân của ông.
Vì lịch sử là một bộ môn đòi hỏi tính chính xác khoa học nên chúng ta ước mong những nhà sử học VN trong hiện tại và ở tương lai, đặt lương tâm chức nghiệp lên trên mọi sức ép của các thể chế đương quyền, để bảo đảm tính trung thực của lịch sử, và trong bế tắc hãy dùng lòng dân làm thước đo phẩm cách và nấc thang giá trị của các nhân vật lịch sử, ngõ hầu tránh đươc những lỗi lầm

=========


Phan Thanh Giản và Tôn Sư Trọng Đạo

.....................................................

Tôn sư trọng đạo là thứ tình cảm tự giác, không thuộc phạm vi kiểm soát và điều khiển của lý trí. Tôi nghĩ đây là tình cảm vì nó xuất phát tự trái tim chớ không phải là bổn phận vốn dĩ áp đặt, câu thúc từ xã hội. Lòng tôn sư trọng đạo không chỉ là sự kính trọng với các thầy cô trực tiếp dạy mình mà còn là sự tôn trọng thầy của bạn và bạn của thầy.

Lòng mến mộ chân thật đó đã thể hiện rõ nét trong việc Phan Thanh Giản di dời mộ phần của cụ Võ Trường Toản về chôn ở đất nhà của họ Phan (thuộc làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Hai ông không liên hệ huyết thống mà cũng chẳng phải nghĩa thầy trò. Cụ Gia Định Sùng đức Võ tiên sinh mất năm 1792 thì mãi bốn năm sau (1796), cụ Phan mới sinh ra đời. Vốn mang lòng cảm cựu và kính yêu từ trái tim của một nho sinh đối với bậc thầy có tư chất thanh cao liêm khiết, Phan Thanh Giản không nỡ để mồ mả cụ Võ nằm trong vùng đất giặc tạm chiếm. Đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông được giao nhiệm vụ làm chủ tang cử hành việc cải táng. Ngày 2-5-1867, Phan Thanh Giản có soạn bài văn bia định khắc ở mộ Võ Trường Toản thì binh biến lại nổi lên. Thành Vĩnh Long mất ngày 28-6-1867 và cụ Phan mất ngày 4-8-1867. Việc khắc bia kéo dài tới năm 1872.

Năm 1888, phong trào Cần vương thất bại, tên phản phúc Trương Quang Ngọc dẫn Pháp đánh thẳng vào căn cứ Tân Sở (Quảng Trị). Có tất cả sáu người bị Pháp bắt trong đó có Hàm Nghi. Nhà vua nhất định không chịu mình là Hàm Nghi. Có một tên Việt gian bày kế: “Hàm Nghi rất mực kính trọng thầy dạy. Khi còn là thái tử ở trong cung, khi thầy đến dạy, Hàm Nghi bao giờ cũng khăn áo chỉnh tề, lạy thầy rồi mới học”. Biết được như vậy, Pháp cho mời thầy cũ của vua Hàm Nghi là ông Nguyễn Thận quê ở Thanh Hóa đến. Vừa thấy bóng dáng thầy, Hàm Nghi quì xuống lạy ba lạy. Kết quả là Hàm Nghi bị đày sang Algérie và tới năm 1947 thì mất.

Tinh thần tôn sư trọng đạo là phẩm chất cao quí nhất trong đạo làm người. Nhưng nó là lòng thương yêu và kính nể phát xuất từ cái tâm. ......


Bùi Thanh Kiên (Cựu Giáo Sư Trường Trung Học Kiến Hòa)




Xướng Họa Của Người Bến Tre



Tam triều ánh nhựt thanh liêm khiết
Lục tỉnh thinh danh chỉ độc tôn


Bài Xướng: Giải oan muộn

Cảm phục vô vàn tiết cụ Phan
Bao năm gánh chịu nỗi hàm oan
Tượng đồng Thị Xã cam xiêu đỗ
Phần mộ Ba Tri chẳng viếng an
Sáu tỉnh, vì dân đành chịu mất
Ba triều, bởi nước xác thân tan
Hơn trăm bốn mấy năm, nay được:
Ái quốc trung quân tiếng cụ Phan

Huỳnh Lan, BT




Mộ cụ Phan Thanh Giản cho đến năm 1957



Sá gì một khối xi măng
Dựng lên hạ xuống cầm bằng giỡn chơi
Sử xanh đã tạc tên Người
Một hai Hệ Thức đổi dời được đâu



Bài Họa: Chỗ Dành Cho NGƯỜI

Vinh nhục thăng trầm mới cụ PHAN!
Nơi xa Người có đợi minh oan ?
Trải qua khổ nạn đâu gì vẹn
Gặp lúc suy vi mọi khó an
Thương cảm kiên trung ngôi mộ nẻ
Chạnh nhìn thiển cận tượng đài tan
Sá chi mấy chuyện ghi rồi đục
Lịch sử luôn dành chỗ cụ PHAN

NhàQuê 16-09-2009


Không có nhận xét nào:


Visitor Map

web stats
Bản Đồ Hành Chánh Ba Tri
Photobucket Photobucket
Không Ảnh Thị Trấn Ba Tri
Photobucket
Photobucket